Trần Kiêm Đoàn
Một cái nhìn từ xa về văn học Việt Nam hiện tại
Tâm lý xa quê và tiếng Việt
Khi sự cố đã thành cố sự, chuyện xẩy ra đã qua đi nhưng vẫn còn dấu vết,
người ta quen xếp nó vào một trong hai ngăn: Ngăn kinh nghiệm hay ngăn kỷ
niệm. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp xếp vào ngăn nào cũng không vừa. Không
vừa chẳng phải vì nó quá lớn hay quá nhỏ mà chỉ vì nó không đủ tác động dằn
vặt, chua xót, cay đắng, vinh quang, sung sướng hay tủi nhục để thành
kinh nghiệm. Nhưng cũng chẳng đủ êm đềm, cảm khái, xúc động hay đam mê
để trở thành kỷ niệm. Xếp vào đâu? Xếp vào ngăn hoài niệm: Ðó
cái ngăn tình cảm không có khóa nên thường dễ nhớ khi tưởng như đã quên và
lại quên khi tưởng rằng đang nhớ. Với cuộc sống nóng bỏng ở Mỹ, chỉ có những
suy tư và "sự cố văn chương" là có vẻ vừa vặn để xếp vào ngăn hoài niệm đó,
vì trên xứ sở quá thực dụng nầy, văn chương không phải là một nhu cầu mà chỉ
là một thú tiêu khiển.
Hơn hai chục năm sống xa quê hương trên đất Mỹ, hàng ngày nói tiếng Việt để
thương và nói tiếng Anh để sống, tôi cứ ngỡ cái ngăn hoài niệm văn chương đó
chỉ còn là quá khứ! Nhưng thực tế lại khác hơn điều suy nghĩ vì càng ngày,
trong những năm về sau, tôi lại càng mở thường xuyên hơn cái ngăn hoài niệm
đó.
Những năm đầu chân ướt chân ráo đến Mỹ, cũng giống như bao người cùng trang
lứa và đồng cảnh ngộ, tôi "tập quên" tiếng Việt để căng mắt, rướn người, uốn
lưỡi, kiếm đà... nhảy cho qua bức tường lửa của ngôn ngữ. Cái ngăn hoài niệm
bị thực tế và nhu cầu cuộc sống trước mắt phong tỏa. Năm năm đầu tôi không
dám mở ra. Tôi "sợ" tiếng Việt cũng như sợ phim chưởng Hồng Kông. Quên đi
thì chớ, chứ mở ra thì mê. Ðêm mê đọc tiếng Việt hay đêm mê thức trắng để
xem phim bộ Hồng Kông, ngày mai dật dờ trong môi trường tiếng Mỹ, cầm chắc
trong tay bị đuổi việc làm thì lấy gì để sống. Tôi có thể uống nước lạnh nằm
nhà vài hôm... ngâm thơ, nhưng các cháu mà uống nước lạnh thì chỉ còn "ngậm
thở"!
Khi "bức tường lửa" của ngôn ngữ càng lụi dần thì ngăn hoài niệm từ từ mở ra
như một sự kêu gọi vô hình mãnh liệt mà bố già phân tâm học nổi tiếng thế
giới, Eric Erikson, gọi là một sự "quân bình về bản lai
[1] " (equilibrium of identity).
Trong văn học, người ta có thể giấu một đại lục dưới đáy biển, nhưng lại khó
lòng mà giấu cái "bản lai Việt Nam" giữa những suy tư và trong từng con chữ.
Cũng thế, có những tác giả đã thành danh, văn họ viết ra dù ký dưới bất cứ
bút hiệu nào thì người đọc vẫn cảm thấy sự quen thuộc và gần gũi rất "cố
tri"!
Nhìn về cuộc tranh luận văn chương
Từ phía bên nầy, tôi vừa được đọc 3 bài nhận định về tình hình nhà văn
Việt Nam đương đại của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhan đề:
Trò
chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn. Tuy đã quen
với văn phong và văn tứ của anh trong những chuyện ngắn thời danh như
Tướng Về Hưu, Con Gái Thủy Thần, Như Những Ngọn Gió... tôi vẫn cảm nhận
được chất lửa hừng hực của Nguyễn Huy Thiệp toát ra từ cả ba bài viết. Phản
ứng tâm lý tức thời của một người có chút ít duyên nợ còm với văn chương,
sống xa quê hương như tôi là thật sự xúc động. Xúc động không phải vì khả
năng có thể đồng ý hay không với cách nhìn và nội dung của bài viết, nhưng
là vì tác giả đã bất chấp búa rìu dư luận của giới nhà văn sẽ phản ứng mạnh
khi bị động chạm, để viết ra một cách thẳng thừng những suy nghĩ của mình.
Auraleo Perez, một nhà văn trẻ và cũng là một bác sĩ y khoa thuộc phái cách
tân Nam Mỹ nói về ngôn ngữ văn chương: "Nội dung như nồi xúp, văn phong
như ngọn lửa. Ðun lửa quá nhiều xúp sẽ bị cháy, khó nuốt và mất ngon; bật
lửa ít biết xúp nấu bao giờ cho chín!" Như thế, có vẻ như người cầm bút
cũng giống như người điều khiển vặn nút lò ga. Sự chọn lựa nào cũng ít nhiều
kéo theo những hệ lụy tất yếu của nó. Tôi nghĩ là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
đã canh nút lò ga của anh để nấu món xúp văn chương theo tốc độ mà anh cần.
Sau đó không lâu, tôi lại được đọc bài:
Có
thật đa số các nhà văn Việt Nam đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh hay là
'hội chứng chửi có thưởng' thời nay? của nhà thơ/nhà văn Trần Mạnh
Hảo. Tôi đọc bài nầy cùng một đêm với những trang cuối của tác phẩm phê bình
văn học Văn Học - Phê bình, Nhận diện của anh do Văn Học xuất bản năm
1999. Nhắc đến Trần Mạnh Hảo tôi thường nhớ đến những câu thơ tài hoa của
anh nhiều hơn là các bài viết văn xuôi của anh. Có lẽ tại vì tôi cứ lẩn thẩn
nghĩ rằng anh có "căn cơ" của một thiền sư "Ðổi kinh lấy rượu tâm hư uống
tràn" khi đọc Giao Thừa Nhớ Rét với hai câu thơ đẹp như mây khói thảo
am của anh:
Rét quánh lại thành rêu trời xanh ngái
Nhớ thịt đông mây trắng ngủ trong nồi
Nguyễn Huy Thiệp và Trần Mạnh Hảo, cả hai đều là những khuôn mặt nổi
tiếng trong văn giới nước nhà và hải ngoại hiện nay.
Cũng giống như nhiều người Việt sống ở nước ngoài, nhưng vẫn còn quan tâm
đến sinh hoạt văn học nghệ thuật ở quê nhà, chúng tôi vẫn cố giữ cho ngọn
đèn tiếng Việt tiếp tục cháy trong lòng mình và trong lòng thế hệ trẻ Việt
Nam giữa một xã hội đa chủng tộc và lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính như Mỹ.
Tuy ít có cơ hội tiếp cận thường xuyên với tác phẩm và sinh hoạt văn học
nghệ thuật tại quê nhà, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng bằng mọi phương tiện có
được để không biến mình thành người "ngoại quốc" của văn học nghệ thuật Việt
truyền thống và đương đại. Bởi vậy, chúng tôi không ngây thơ để cả tin vội
vàng vào một nhận định bất cứ từ phía nào tới. Văn học nghệ thuật là một
phần gia tài tinh thần quan trọng của văn hóa. Cho nên sự xây dựng, phê phán
nghiêm khắc và nếu cần phá đổ... đều là một quá trình tổng hợp lâu dài. Quá
trình đó là một chuỗi diễn biến và tác động qua lại nhiều hướng và nhiều
chiều của sự kiện (facts) chứ không phải của ý kiến hay quan niệm cá nhân
(opinions) đơn thuần. Khi xưa nhà thơ Cao Bá Quát có bịt mũi, nhăn mặt kêu
lên: "Ngán thay cái mũi vô duyên/ Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An"
thì khách yêu thơ có thể thích thú vỗ tay reo cười, nhưng Mặc Vân Thi Xã
không vì thế mà thịnh đạt hay suy đồi vì hội thơ đó là một thực thể sinh
động của thi ca chứ không phải chỉ là nhãn hiệu phù phiếm của khẩu hiệu và
thần chú để người đời bái phục hay trêu chọc.
Cũng thế, Hội Nhà Văn Việt Nam như thế nào thì đã có những tác phẩm của các
thành viên trong hội tự nó nói lên tư chất của họ. Từ một góc độ tích cực
nhất, tôi nghĩ rằng, một tổ chức văn học và gia tài tác phẩm văn học của tổ
chức đó... nếu ngày nào vẫn được còn chú ý, vẫn được khen ngợi nhiệt tình
hay bị chê trách gay gắt thì ngày đó vẫn còn xác định được thế đứng và tác
dụng của mình trong lòng người đọc. Ðiều đáng sợ nhất cho một nhà văn hay
một tác phẩm văn chương là hiện tượng ra đời và biến mất trong im lặng. Paul
Eszlinger nói lên điều nầy một cách thấm thía trong tác phẩm Phê Bình
Đương Đại (Contemporary Criticism), rằng: "Nhà văn và tác phẩm
được coi như đã chết khi không còn ai biết hay nhớ để khen chê." Và, ông
cũng nói tiếp: "Tất cả mọi sự khen và chê dù chủ quan hay khách quan; dù
nhẹ nhàng hay thô bạo đều là tiếng kèn sống động thôi thúc nhà văn nên tự
biết mình để tiếp tục cầm bút vươn lên hay ném nó đi và chọn một nghề khác
thích hợp hơn."
Cũng có khi những khuynh hướng luận bàn văn học Việt Nam không phát xuất từ
phía người Việt mà lại phát xuất từ phía người Mỹ. Ðấy là trường hợp nhà thơ
Mỹ John Balaban dịch thơ Hồ Xuân Hương và ca dao Việt Nam ra tiếng Anh quá
sai lạc với nguyên bản tiếng Việt hay Nôm cũng đã gây ra nhiều tranh luận
giữa chúng tôi và Art Times Journal về đề tài "To Translate is to
Betray?" (Dịch là Phản?)
Nói gọn lại thì các cuộc tranh luận văn chương, từ căn bản, mang bản tính
lành mạnh của một thực thể văn chương chưa bị lụi tàn và quên lãng.
Không lâu trước ngày ba bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định về
giới văn bút Việt Nam đăng trên báo Ngày Nay, tôi cũng đã có dịp nêu
những ý kiến khiêm tốn của mình trong bài nhận định:
Viễn
ảnh một giải Nobel văn chương cho giới văn bút Việt Nam đăng trên
các báo Xuân Việt ngữ tại Mỹ, Canada và Úc. Bài nầy cũng được các trang
talawas và eVăn đăng lại. Qua bài nầy, sau khi điểm qua tác giả và tác phẩm
tiêu biểu của giải Nobel thời cận đại, tôi đã nêu lên câu hỏi là tại sao đã
ba mươi năm sau cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến trường kỳ và có tác động
rất lớn trên cả toàn thế giới như vậy, đến nay chúng ta vẫn chưa có những
tác phẩm văn học xứng đáng với lịch sử và thời đại, mang tầm cỡ quốc tế? Tôi
không phủ nhận tài năng của đa số nhà văn Việt Nam. Nhưng sự thắc mắc vẫn
chưa giải tỏa được khi nhìn lại khoảng cách quá xa giữa nhà văn và tác phẩm,
giữa văn tài và văn phẩm, giữa đội ngũ khá hùng hậu của nhà văn Việt Nam và
sự vắng bóng của những tác phẩm văn chương có tầm cỡ lớn lẽ ra đã có.
Ðến khi đọc phần nhận diện và phân tích các nhà văn, nhà thơ của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp tôi hơi bị chững lại. Vốn đã quen với thủ pháp diễn đạt tài
hoa nhưng cũng cực kỳ bạo liệt trong một số truyện ngắn đã xuất bản của anh,
tôi vẫn cảm thấy quá nhiều chất lửa khi anh nói về nhà văn, nhà thơ Việt Nam
bằng ngôn ngữ gay gắt, không khoan nhượng. Rất có thể vì quá say sưa trong
lý luận và phân tích về tư chất và phẩm cách của giới nhà văn Việt Nam đương
đại, nên anh chưa có những dẫn chứng cụ thể mang tính thuyết phục cần thiết
để làm căn bản cho nhận định của anh, và đồng thời cũng làm giảm bớt sự phê
bình phản bác gay gắt, nếu có. Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì đương đại
hầu như đồng nghĩa với "suy đồi" (?). Tác giả viết: "Các nghệ sĩ sống
trong thời hiện tại không thể tránh được sự dung tục, nhảm nhí, không thể
tránh được bọn tiểu nhân, bọn phàm phu tục tử, lưu manh, philillistanh, ngụy
quân tử v.v..." Như thế có nghĩa là hoàn cảnh sáng tác suy đồi hay chính
bản thân lớp nhà văn Việt Nam hiện đại suy đồi? Và, nếu sự suy đồi nầy có
thật, dù ở phía bên nào, thì đấy là một khái niệm mang tính triết lý, tâm
lý, xã hội hay là một hiện thực có thể kiểm nghiệm được trong sự đối thoại
với giò hoa thủy tiên của anh?
Phản ứng trực tiếp và nhanh chóng đối với bài viết của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp là bài nhận định của nhà thơ/nhà văn Trần Mạnh Hảo. Là một nhà thơ,
nhà văn, nhà biên khảo có nhiều tác phẩm thi ca và công trình biên khảo đã
xuất bản, lần nầy, bài nhận định của nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo xuất
hiện có vẻ như không cùng một tần số với bài viết của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp. Thay vì cùng nhồi bóng trên sân chơi với cầu thủ Nguyễn Huy Thiệp để
tranh tài cao thấp, làm bàn tung lưới đẹp mắt, thì trọng tài Trần Mạnh Hảo
nghiêm khắc thổi còi phạt cầu thủ vượt quá lằn ranh giới hạn. Việc đánh giá
sự tỉnh táo và suy diễn mục đích của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi viết bài
nhận định nêu trên không quan trọng bằng sự phân tích và nhận định chân dung
giới nhà văn Việt Nam hiện nay "như thế nào". Nhất là khi Trần Mạnh Hảo muốn
xác lập một hướng nhìn hầu như ngược lại với Nguyễn Huy Thiệp. Tinh hoa của
nhà văn, nhà thơ là tác phẩm sáng tạo của chính họ chứ không phải những phụ
dung quanh con người và lối sống của họ. Giai điệu của Requiem có làm
nhân loại đời sau xúc động hay không chứ có ai thắc mắc Mozart sáng tác khi
còn thanh xuân hay trong cơn chết của ông; hoặc băn khoăn vì sao mà ông viết
một điệu ca bi ai đến thế đâu.
Sự phân tích và lý luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo về bài viết của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp tăng cường độ đến mức cao điểm quanh vấn đề "học" khi anh
trích lại lời của NHT nói rằng, những nhà văn Việt Nam trong hội nhà văn là
"vô học".
Tôi không có ý diễn dịch xa hơn và vẫn chưa hiểu cụm từ "vô học" đặt trong
nháy nháy của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có cùng một khái niệm như từ "vô học"
của nhà văn Trần Mạnh Hảo trích ra từ Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt hay
không. Ðối với một nhà văn, cái phẩm chất "học" thật khác xa với cái học quy
ước của trường ốc. Không ai có thể phủ nhận được rằng kiến thức và kinh
nghiệm là vũ khí cần thiết của nhà văn. Vốn tri thức là phương tiện tĩnh mà
học vấn là phương tiện động của nhà văn. Chất liệu sáng tác của những nhà
văn điển hình là đọc, đi và sống. Cuốn sách nhỏ trong trường học và thư viện
cần phải có cuốn sách lớn ngoài đời làm bảo chứng. Nhà văn chỉ đọc mà không
sống thực là làm "văn nói suông"; ngược lại, chỉ sống lăn lộn ngoài đời để
tìm chất liệu sáng tác mà không chịu đọc và tham khảo sách vở là viết "văn
nói đại". Văn nói suông và văn nói đại là mớ chữ nghĩa qua ngày chứ không
phải văn chương đích thực.
Rõ ràng là "cái học" của nhà văn không có cùng một khái niệm, một quy ước
với sự học vấn thông thường trong hệ thống trường học chính quy. Mục tiêu
của trường học là cung cấp kiến thức mà sự biểu hiện hữu hình và cụ thể là
bằng cấp, học vị. Nhưng mục tiêu của nghệ thuật là nắm bắt sự rung động và
diễn đạt sự rung động đó bằng phương tiện nghệ thuật mà sự biểu hiện cụ thể
là tác phẩm. Một nhà văn không có tác phẩm xứng đáng cũng giống như chú học
trò, người sinh viên không có văn bằng tốt nghiệp tương xứng với cấp học của
mình. Học là một quá trình thu thập và vận dụng. Như thế "cái học" của nhà
văn là gì? Theo tôi thì cái học của nhà văn là một sự tham dự trực tiếp vào
hiện thực cuộc sống. Tham dự với trí óc và tâm hồn mở rộng để tiếp thu thế
giới đối tượng vào trong tâm hồn và sự suy tư độc lập của chính mình. Từ đó
sử dụng một cách năng động trong âm thầm và cô đơn qua trực giác, cảm nhận,
kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh nội tại của chính mình để tái tạo cho
mình một thế giới "không giống ai". Ðấy chính là sự độc sáng (uniqueness,
personal creation) của nghệ thuật. Và, đấy cũng chính là cái mới của nghệ
thuật. Sáng tạo là một tiến trình tìm ra cái mới từ trong cái cũ. Văn, thơ,
nhạc, họa... cũng phải sử dụng phương tiện đã cũ, đã có sẵn hàng bao thế kỷ
như ngôn ngữ, ký hiệu (chữ viết), âm thanh, màu sắc... để sáng tạo ra tác
phẩm. Bởi vậy, "cái học" của nhà văn là cái học dấn thân (integration) và
khám phá (discovery) để sáng tạo, chứ hoàn toàn không phải là cái học thu
nhận thụ động, nhớ nằm lòng và tích lũy chờ cho đến ngày trả bài để được
giám khảo đánh giá đậu hay hỏng, được hay thua. Những mảnh văn bằng cử nhân,
thạc sĩ hay tiến sĩ chẳng phải là "điều kiện ắt có" để tạo ra văn chương và
ngược lại.
Cái "học" của những nhà văn lớn là sự dấn thân vào môi trường mà họ muốn
viết. Họ học bằng cách sống thật, bằng sự quan sát, phân tích và suy tư đến
tận cùng sâu thẳm thế giới riêng tư, trần trụi, cũ mèm và mới tinh nguyên
trong chính họ, xung quanh họ, thiết thân đối với họï. Thế giới nội tâm đó
bao la và vĩ đại quá đối với một nhà văn, nhưng dường như "chẳng có gì đáng
nói" đối với cuộc đời thường. John Steinbeck trong tác phẩm Chùm Nho Uất
Hận (The Grapes of Wrath) đã chọn cuộc sống của gia đình Joad,
một gia đình di dân xuất thân lang thang làm thuê ở nông trại. Những "biến
cố" trong toàn bộ câu chuyện đều là những sự việc bình thường trong cuộc đời
thường. Ernest Hemingway trong Ngư Ông và Biển Cả (The Old Man and
the Sea) cũng chỉ quanh quẩn với ông già Santiago và con cá mập để độc
thọai với biển khơi. Toni Morrison trong Bài Ca Solomon (Song of
Solomon) cũng giới hạn trong thế giới của Milkman Dead một người đàn ông
trung lưu, bình thường đi tìm lại gốc gác của mình. Cao Hành Kiện với
Linh Sơn (Soul Mountain), chẳng cần những củ sâm 1000 năm của
tiểu thuyết Kim Dung mới xây dựng được thế giới diệu kỳ cho tác phẩm. Thế
nhưng họ đã xây dựng được những tác phẩm lẫy lừng trên văn đàn thế giới bằng
những chất liệu "bình thường" như thế. Nếu tìm hiểu sâu hơn lịch sử đời tư
của họ, chúng ta sẽ thấy được những nhà văn lớn đó đã dấn thân và "học" như
thế nào.
Phải chăng đấy là cái "học" cần thiết cho người cầm bút mà nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp muốn nói đến?
Nếu có một "hội nghị văn học" nào đó cho những người cầm bút Việt Nam, tại
quê nhà cũng như ở nước ngoài, có lẽ những ưu tiên cần nói với nhau trong
lúc nầy là sự định hình lại giá trị đích thực của nội dung và sinh hoạt văn
chương. Ðiều gì nhà văn cần nói với nhau trước nhất? Ðâu là tiêu chí của sự
định hình đó? Có thể là (1) sự dấn thân của nhà văn, (2) bản lĩnh và phẩm
cách của nhà văn, (3) cái mới trong văn chương, và (4) cái "học" của nhà
văn... chăng?
Hội văn chương xưa nay là giàn phóng của nhà văn chứ không thể là pháo đài
núp bóng của nhà văn. Hội nhà văn bất cứ ở đâu là chiếc thuyền ra khơi của
nhà văn chứ không phải là phương tiện để trở về bến đậu của nhà văn. Ða phần
các Hội Nhà Văn ở Âu châu và Mỹ châu là một môi trường thi thố và thử thách
tài năng chứ không phải là những câu lạc bộ để trải chiếu hoa cạp điều mời
nhau nhập cuộc mà đấu đá, ca nhau hay cùng nhau "dấn thân"... vào ngõ cụt!
Sau một thời gian nhập hội, những nhà văn nào cảm thấy mình không còn sáng
tác được nữa thì tự động xin ra khỏi hội để giữ danh tiếng cho hội và khí
tiết của nhà văn chứ không thể ngồi lỳ dưới bóng râm của hội để tính chuyện
lão làng. Những hội nhà văn như L'Association Professionelle des Écrivains
de France, Academie des Écrivains Publics de France (Pháp) hay National
Writers Association, National Association of Women Writers, Southeastern
Writers Association (Mỹ)... định nghĩa giá trị hội viên của họ bằng tác phẩm
trình làng cụ thể và rất chật chỗ lẫn hà tiện cho sự phát triển khuynh hướng
"sống lâu ra lão làng".
Theo tôi nghĩ thì cuộc bút luận về nhà văn trong nước hiện nay mới chỉ là sự
cựa mình của con rồng nghệ thuật Việt Nam. Con rồng đó cần phải có sự chuyển
mình mạnh mẽ để bay cao, đuổi kịp những bước đi đầy khai phóng của thế kỷ
mới.
Thay lời kết luận
Tôi viết những dòng nầy từ một nơi mà thời gian đến sau Quê Mẹ của
tôi đến 18 giờ. Sau một ngày làm việc, tôi mang cái máy vi tính xách tay vào
trong quán cà phê Starbucks [2] ,
kêu một ly cà phê và mở máy ngồi gõ lóc cóc một mình. Thế giới xung quanh là
một thế giới Mỹ. Có chăng một chút Việt Nam còn lại là những dòng chữ La
Tinh có dấu nầy và một tấm lòng thương nhớ quê hương. Tôi viết những dòng
nầy như những cảm nghĩ xuôi dòng nhưng cũng đầy xúc cảm. Xúc cảm khi nghĩ về
những khuôn mặt thân thương của những người anh em trong trường văn trận bút
ở quê nhà. Tôi rất chủ quan để nghĩ rằng, từ trong sâu thẳm của tâm thức,
tất cả chúng ta đều ước mong những điều tốt đẹp nhất đến với quê hương mình.
Riêng trong lĩnh vực văn chương, chúng ta đã và đang có cơ hội từng bước góp
mặt với những trào lưu văn nghệ thế giới mà cụ thể là sự ra đời và góp mặt
của những tác phẩm văn chương mang tầm cỡ quốc tế trong những năm sắp tới.
Vốn đã hơi quen với cuộc sống đầy cạnh tranh gay gắt ở Mỹ và cách đặt vấn đề
đầy tính chất đương đầu và sáng tạo, tôi không nghĩ sự trưởng thành và bản
lĩnh của giới văn bút thuộc thế hệ chiến tranh Việt Nam là đang bằng lòng và
bảo thủ với những gì mình đang có. Nghề viết văn là một nghề "nghiệp
chướng". Một phút nhà văn không suy nghĩ đến những điều mình phải viết và
sắp viết là một phút phi sáng tạo. Cần phải có sự truy tìm sâu và xa hơn
trong sáng tạo. Những mũi nhọn chích vào bức tường cũ để hé ra những tia
sáng mới trong văn chương bao giờ cũng nhức nhối và đầy trăn trở. Khi một
chân trời đã hiện ra thì hẳn nhiên những mũi nhọn đó sẽ thành những song cửa
ngắm trăng. Nếu nhìn theo một khía cạnh tích cực như thế thì những mũi nhọn
Nguyễn Huy Thiệp không phải là một sự tấn công mà là một sự đánh thức. Mong
sao trong những cuộc luận đàm văn chương, chúng ta ghi nhận hình ảnh mộc mạc
"Nồi xúp và ngọn lửa" của Perez mà tôi đã trình bày ở phần trước.
Chắc sẽ không ai mong chỉ có "lửa non" để sưởi ấm nằm ngủ quên hay bồi "lửa
già" cho nóng mặt, bỏng tay rồi quên đi món xúp văn chương mà các nhà văn
đang đặt nấu ở trên lò. Tôi chỉ xin phát biểu những suy nghĩ rất chân tình
phát khởi tự đáy lòng mình. Nếu không có ai nghe thì cầm bằng như chiều nay
tôi đang say mê nói tiếng Việt mẹ đẻ trong quán cà phê Starbucks toàn Mỹ là
Mỹ nầy. Bên ly cà phê nhạt thếch kiểu Mỹ ở phía sau mặt trời đang đứng bóng
ở quê hương, tôi say sưa độc thoại?!
California, Mùa Xuân 2004
© 2004 talawas
[1]Identity: Có
người dịch là lai lịch; người khác dịch là bản sắc. Nhưng trong khái niệm
của phân tâm học hiện đại thì "Identity" vừa có nghĩa là lai lịch mà cũng
vừa có nghĩa là bản sắc. Người Viết bài nầy xin tạm dịch là "bản lai".
[2]Starbucks: Một hệ thống quán cà
phê nổi tiếng trên toàn nước Mỹ. Khách hàng có thể vào quán gọi một ly cà
phê và ngồi đó suy nghĩ, chuyện trò hay viết lách cho đến 10 giờ đêm mà
không lo bị ai quấy nhiễu.