Sự kiện Hoa thủy tiên [1] - phần 1 bài viết của Nguyễn Huy Thiệp
eVăn: Gần đây, báo Ngày Nay
có đăng làm nhiều kỳ bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “Trò
chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” (Ngày
Nay, các số 4, 5, 6, ra các ngày 15/2, 1/3 và 15/3). Bài viết
của ông Thiệp đang gây tranh luận gay gắt trong làng văn nghệ Việt Nam.
Đến nay đã có rất nhiều ý kiến phản hồi của các nhà văn và nhà phê bình.
Để giúp bạn đọc có thông tin về sự kiện này, eVăn chọn đăng những bài tiêu
biểu đã được công bố trên các báo và tạp chí. Dưới đây là phần 1 bài viết
của ông Nguyễn Huy Thiệp trên báo Ngày
Nay.
Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (phần 1)
- Nguyễn Huy Thiệp -
Kinh nghiệm người đi trước
Trong những cuộc trò chuyện về văn học trên "văn đàn" gần đây thì cuộc trò
chuyện của phóng viên báo An Ninh Thế
Giới với nhà văn Tô Hoài (in trên báo
An Ninh Thế Giới Cuối Tháng
12. 2003) theo tôi là một cuộc trò chuyện hay nhất. Cũng phải nói thêm
rằng cuộc trò chuyện này có hơi hướng một cuộc hỏi cung oái oăm và không
được nhã cho lắm nhưng thực ra điều ấy không can hệ gì. Hai bên vấn đáp,
trao đổi giống như kiểu cao nhân ngồi trên núi hoa đào luận bàn về kiếm
pháp trong giới giang hồ ("hoa sơn luận kiếm"). Tôi không nhớ tình huống
nào đã dẫn đến câu hỏi về sĩ khí của nhà văn (tức là một câu hỏi đốp chát
nhất về danh dự): "Anh có hèn không?" "Tại sao như thế này và như thế kia
v.v." Nhà văn Tô Hoài không trả lời đúng vào câu hỏi (hầu hết trong cuộc
phỏng vấn này ông đều không trả lời đúng vào câu hỏi). Tô Hoài sinh năm
1920, bắt đầu viết văn từ những năm đầu tiên của nền "văn học chữ quốc
ngữ", lừng danh từ tuổi 20 với tác phẩm bất hủ
Dế mèn phiêu lưu ký, có thể
nói là một "cây đại thụ trong nền văn học nước nhà". Ông đã sống, viết
lách, trải nghiệm qua vài chế độ, hiểu khá rõ về sự đời, tình đời. Khi Tô
Hoài nói về kinh nghiệm viết văn (điều này cũng giống như nhiều người viết
văn thuộc thế hệ ông), người ta đều nhận thấy những kinh nghiệm viết văn
của họ luôn đan xen với những kinh nghiệm đối nhân xử thế. Văn học (với
tính chất xã hội rõ ràng) không còn là một "nghệ thuật chữ nghĩa" mà hiển
nhiên là "nghệ thuật sống", nó có cái cần lâu hơn, là tay thước, là cây
gậy, là cái bẫy chim, thậm chí còn là cây súng.
Ở thế hệ "nhà văn hiện đại" bây giờ (tôi có thể kể tên đôi ba người làm ví
dụ trong đó có Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Phan Thị Vàng Anh v.v.) họ có
thể trông chờ gì ở kinh nghiệm viết văn ở các bậc tiền bối nếu chỉ cứ loay
hoay với các cung cách ứng xử mà thôi? Trong một phát biểu trên báo gần
đây Hồ Anh Thái cho rằng: "Nhà văn là người có lẽ không thích hợp với các
sinh hoạt đám đông, thậm chí cả với sinh hoạt gia đình" (Báo
Thể Thao Văn Hóa số Tết tất
niên Giáp Thân 2004). Tôi hơi băn khoăn về quan điểm đó và tôi không mong
nó sẽ đại diện cho quan niệm của cả một thế hệ nhà văn trẻ bây giờ. Điều
ấy chứng tỏ văn học đang ngày càng trở nên khắc nghiệt hơn so với trước
kia. Văn học hiện đại đó là một sân chơi ngày càng chuyên nghiệp và quyết
liệt (vì sao tôi sẽ nói sau) không phải là một "nghệ thuật" dễ xơi chút
nào. Xem xét quan niệm của các nhà văn danh tiếng đáng mặt hiện nay trên
thế giới và khu vực hầu như ai cũng nói đến cuộc sống riêng tư của mình
một cách khá dè dặt, mặc dầu dè dặt nhưng chính cái "cuộc sống thổ tả" ấy
lại là cốt lõi, là thức ăn cho cuốn sách họ đang viết. Ở Trung Quốc, Cao
Hành Kiện là đương nhiên rồi, còn những người "hạng hai" như Mạc Ngôn, Giả
Bình Ao, Vệ Tuệ, Miên Ngôn, Cửu Đan… tất cả đều trình bày cuộc sống "tự
sự" của mình một cách cay đắng và cũng có thể nói là thành công. Mạc Ngôn
nói: "Tiểu thuyết là tự sự (tự thuật)". Quan niệm này tuy lỗ mãng nhưng
phải nói là xác đáng. Ở Miên Miên (một cây bút nữ trẻ) "vô thức" đã giúp
cô nhận ra điều ấy khá trực tiếp. Ở bên trời Tây, trước đây Sagan (tác giả
Buồn ơi chào mi) cũng đã
từng làm như thế nhưng khoảng cách giữa sáng tác và tự sự vẫn là một trời
một vực. Lối viết tự sự đòi hỏi sự thành thật và một nghệ thuật che giấu
tình cảm rất cao. Nhà văn - nhân vật luôn đối mặt với những sự hiểm nguy ở
trong "trái tim", trong công việc, trong ứng xử, trong mọi sinh hoạt của
mình. Nó dứt khoát là một cuộc sống phiêu lưu, thậm chí còn nguy hiểm nữa.
Tôi hiểu vì sao có khá nhiều "nhà văn trẻ" hiện nay đang sống độc thân,
"vào Nam ra Bắc", khước từ mọi "hệ lụy", rắc rối, sống âm thầm, "dằn vặt",
v.v. Văn học đã trở nên quá nặng nề với họ. Thức ăn của văn học là cuộc
sống của chính tác giả, văn học xơi những miếng to tướng, vừa ăn vừa nhằn
ra nham nhở, chẳng hề "nghệ thuật" chút nào. Bảo trọng mình ra sao để có
thể "kể chuyện" được không dễ. Ở thế hệ Tô Hoài, tôi ngờ rằng họ quan sát,
chiêm nghiệm nhiều hơn thể nghiệm. Đọc lại bài phỏng vấn về Tô Hoài, ông
cho biết, Nam Cao viết do "vợ kể lại", Nguyễn Đình Thi "sáng tác" mà không
biết trong chùa có ai sống (sư cụ, tiểu hay vãi…), Hoàng Cầm làm "thơ tán
gái" v.v. Văn học hiện đại rất coi trọng "cảm giác". Không có cảm giác
thật thì chẳng làm được gì cả. Cảm giác là thứ không thể truyền lại được.
Kinh nghiệm của cảm giác là thứ rất khó ấn chứng giữa người này với người
kia. Kinh nghiệm viết văn thực ra chỉ là kinh nghiệm của cảm giác. Cảm
giác - đó là một thứ văn học mà văn học hiện đại đặt thành tiêu chí hàng
đầu. Ít nhất, đó cũng là cảm nhận, cảm giác của riêng tôi… khi mà tôi đi
sâu vào thế giới sáng tác nội tâm của mình và các nhà văn hiện đại đương
thời.
Đương đại - tức là "suy đồi"?
Khi ta đang sống (đương đại) nghĩa là ta đang tiếp cận, đang tiếp cận cái
chết (sự suy đồi ghê rợn nhất). Nghệ thuật đương đại, xét cho cùng chính
là nghệ thuật suy đồi. Thời gian qua đi, những kinh nghiệm của cảm giác
giá trị nhất sẽ còn lại, trở thành cổ điển, kinh điển, thành "văn hóa",
đóng khung lại trong các bảo tàng nghệ thuật và trong trí nhớ người đời.
Các nghệ sĩ sống trong thời hiện tại không thể tránh được sự dung tục,
nhảm nhí, không thể tránh được bọn tiểu nhân, bọn phàm phu tục tử, lưu
manh, philistanh, ngụy quân tử v.v. Kiểu gì thì kiểu, ngay cả những nhà
văn danh giá nhất đôi khi vẫn cứ phải chung lưng đấu cật, "ba cùng", vẫn
cứ phải đối thoại, đùa cợt, chơi bời với các đồng nghiệp bất đắc dĩ của
họ, cùng lý tưởng nhưng khác hạng" (chữ của Victor Hugo). Không khí dung
tục suy đồi "đương thời" cũng chính là không khí sống, không khí sáng tác
- mặc nhiên là thế - bởi vậy nếu từ chối đối thoại nghĩa là anh tự làm cho
mình khó thở, tự giam cầm mình. Trước mặt tôi đây là một giò hoa thủy tiên
thơm ngát. Này hoa thủy tiên lạc loài, ngươi có biết rằng rồi sẽ có ngày
chẳng còn ngươi, cũng sẽ chẳng còn ta nữa không?
Trong bài viết
Thời của tiểu thuyết tôi đã
nói đến văn học tự sự và tôi vẫn còn coi nó như một hình thức nghiêm cẩn
nhất, chính trực nhất trong tư chất nghệ sĩ mỗi nhà văn. Gì thì gì, khi
đọc một số nhà văn trẻ "tự sự" ở Trung Quốc gần đây như Miên Miên, Vệ Tuệ,
Cửu Đan… không phải tôi mà hầu hết bạn đọc đều có sự vì nể với họ bởi cách
dấn thân (hoặc là vô tình, hoặc là vô ý của số phận họ) với văn học - và
với cuộc đời nói chung. Nhân nói về sự dấn thân, tôi rất lạ khi thấy một
số nghệ sĩ trẻ, họa sĩ, nhà văn trẻ coi rằng: bỏ nhà đi bụi, đi lang
thang, ngủ với gái điếm, uống rượu say sưa, truy hoan hành xác - đấy mới
là sự dấn thân. Thật nực cười, thê thảm và nhầm lẫn. Hoàn toàn không phải
thế! Mikenlănggiê mò vào nhà xác, mổ xác tử thi để học giải phẫu, giúp ích
cho nghề nghiệp điêu khắc của mình, Victor Huygo chịu đựng lưu đày… đấy
mới là những tấm gương dấn thân cổ điển, cần phải học tập. Trò chuyện với
Nguyễn Việt Hà, tôi có nói với anh rằng: hãy sống với cuộc đời công chức
một cách cẩn thận, quan sát nó, viết về nó cho hay - đấy cũng là một sự
dấn thân "hiện đại". Thực tế đang ngày càng trở nên khắc nghiệt. Đừng
tưởng rằng ở đấy không có trả giá, không có đau đớn, không có gì để viết.
Nó là cả một bi hài kịch cuộc đời, có khi là cả một bi hài kịch một thời.
Tôi rất buồn cười câu chuyện Nguyễn Việt Hà kể cho tôi nghe: ở công sở, có
một tay trưởng phòng xây dựng cho xây toilet. Anh ta kích cỡ hơn người
(cao tới 1m 78) nên chỗ đi tiểu ở cơ quan anh ta luôn cao hơn những nơi
khác tới 15 phân. Vì vậy, gần như mọi người đi tiểu ở đó đều bị nước tiểu
bắn vào quần áo! Sự độc tài của một tay công chức cửa quyền thật lợi hại.
Đặc quyền "lấy của mình ra đo" mà không quan tâm đến những số đo khác
trong thiên hạ là như thế đấy.
Gần đây, đọc bài viết của Bùi Việt Thắng về tôi in trên báo
Văn Hóa Xuân 2004 (được đặt
dưới tiêu đề Trên đường đổi mới)
không hiểu sao tôi cứ hình dung Bùi Việt Thắng giống hệt như tay trưởng
phòng công chức xây dựng cửa quyền nọ. Anh lấy số đo của mình mà đặt tiêu
chí để đo thiên hạ. Sự độc tài công chức và cách "cả nghĩ" của Bùi Việt
Thắng khiến anh bất bình với cuốn tiểu thuyết của tôi. Bi hài kịch là "số
đo" của anh có phần ngắn hơn cái bệ thẩm mỹ của bạn đọc đương thời…
Nhân đây, tôi cũng muốn nhắc đến một vài ý kiến về cuốn tiểu thuyết của
tôi, khi họ đã có nhã ý đưa bài lên một số báo in và trên internet. Song,
đối tượng đối thoại chủ yếu của tôi trong bài viết này gì thì gì (như nhan
đề bài viết) vẫn cứ chỉ là giò hoa thủy tiên lạc loài trước mặt tôi đấy
thôi!
Khi bị phụ tình người ta làm gì?
Đấy là câu hỏi mà bạn đọc Quốc Việt (talawas, 19.01.2004) và một vài người
khác đặt ra. Họ coi việc tôi viết tiểu thuyết là sự "phụ tình" của tôi đối
với bạn đọc "chung thủy". Tôi xuống cấp, trở nên lẩm cẩm, lộn xộn v.v.
Những ý kiến không chuyên nghiệp đó khiến tôi không quan tâm nhiều. Năm
ngoái, khi vào Sài Gòn, tôi rất kính trọng khi Nguyễn Khải cho ra mắt tiểu
thuyết tự sự Thượng đế thì cười.
Dù dư luận có "cảm giác" Nguyễn Khải không thành công với cuốn tiểu thuyết
này nhưng người ta vẫn có thể học ở đó khá nhiều điều. Khi nói chuyện với
Nguyễn Khải, tôi thấy rất rõ ông đã "ngửi" thấy lối đi của tiểu thuyết
hiện đại, có điều khi viết, cảm hứng cười cợt về sự nhục nhã của kiếp
người đã lấn át mất những ngọn lửa nhiệt thành khác trong lòng ông. Có
nhiều bạn đọc đa sự cảm giác bị nhà văn phụ tình. "Ai bị phụ tình?" "Ai bị
tình phụ?". Tôi đã đặt câu hỏi này trong bài viết về hiện tượng Vi Thùy
Linh. Ngay cả trong trường hợp của Nguyễn Khải, mở rộng ra là cả Hồ Anh
Thái (với tiểu thuyết Tự sự 365
ngày và Cõi người rung chuông tận thế)
cũng đôi ba nhà văn khác nữa… Tôi vẫn muốn nhắc lại rằng: "Trước hết đó là
sự phụ tình từ phụ tình của dư luận".
Sự phụ tình của dư luận đối với nhà văn thật ra cũng
chẳng có gì đáng buồn đối với nhà văn. Muốn cho xã hội tiến lên,
phải trao đổi, phải dân chủ, phải được in ấn, phải "cựa quậy" chứ. Trên
đường đổi mới cơ mà! Khi tiến lên, những sự tìm tòi, lệch lạc (chắc gì đã
lệch?) cũng giống như ta "giải phóng một mặt bằng để xây nên một đô thị
mới" - cũng chẳng nên tiếc việc bỏ đi những "tác phẩm của lịch sử" và việc
xây nhầm một vài ngôi nhà.
Tôi không muốn nói nhiều về cuốn tiểu thuyết của tôi (vì trên thực tế nó
chưa được xuất bản) nên việc Bùi Việt Thắng và một số nhà bình luận có nói
gì thì cũng như nói với đầu gối, không "danh chính ngôn thuận". Ở đây tôi
muốn nói rằng: Viết ra được một tác phẩm không dễ. Viết hay thì lại càng
khó. Nghề văn trong thời hiện tại là một nghề khó vào bậc nhất. Khi
Internet phát triển, tác giả không thể tưởng tượng, "lừa bịp" hoặc "sáng
tác" được. Thông tin để xử lý, cung cấp cho các chi tiết sự kiện văn học
có quá nhiều. Nhà văn bắt buộc phải trở thành một nhà văn hóa, một nhà
nghiên cứu. Anh buộc phải giỏi máy tính, giỏi ngoại ngữ, anh ta phải "tự
tổ chức" viết lách và bán hàng. Anh ta phải trở nên chuyên nghiệp, không
mất thì giờ vào những "chuyện tầm phào". Ngay cả chuyện tình phụ, phụ tình
cũng là trò nực cười. Không có gì hết nếu anh không viết được hay, không
bán được tác phẩm của anh cho người đọc.
Tôi sẽ bàn thêm về hai loại văn học: loại tự phát, rèn luyện mà thành, lập
nghiệp tức không chuyên và một loại văn học "thượng đẳng thừa", viết để du
hí chơi bời cũng như một số vấn đề khác của văn học trong phần hai của bài
này.
Chưa bao giờ văn học ở nước ta có những cơ hội lớn như bây giờ nhưng cũng
chưa bao giờ khó như bây giờ. Xã hội cũng phải thấy rõ sự đóng góp về mặt
tinh thần, vật chất của nhà văn để ghi công cho họ. Trong một phát biểu
gần đây, nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng: "Văn học tác động vào xã
hội để ảnh hưởng đến chính trị. Sử học thì tác động vào chính trị để ảnh
hưởng đến xã hội". Đấy cũng là một ý kiến đáng suy nghĩ. Một đất nước văn
minh không thể không có văn học và sử học được. Trong thời hiện đại, công
việc đào tạo nhà văn là rất cần thiết, cần phải xây dựng thành công một
công nghệ. Nó cũng từa tựa như công việc đào tạo các cầu thủ bóng đá
chuyên nghiệp và các vận động viên thể dục có thành tích cao. Không thể
trông chờ vào việc ăn may, trời cho để Việt Nam có một đội ngũ nhà văn
đẳng cấp thế giới. Ngay cả việc có một "tốp" nhà văn cô chiêu cậu ấm để
đối thoại hoặc làm những việc "hậu trường" cũng là cần thiết. Việc phải
nâng cấp cho trường đại học viết văn Nguyễn Du để nó gần với thiên nhiên
hơn, gắn bó với xã hội hơn là rất cần thiết (chứ không phải là nhốt nó
trong một ngôi nhà chật hẹp giữa Thủ đô). Các giá trị văn học đương thời
(thực sự có giá trị) cũng phải được biểu dương đúng mực. Trong bóng đá,
người ta cũng đã phong thánh cho Pêle, Marađôna, Beckham… Ở Việt Nam, hình
như truyền thống…đánh truyền thống, đố kỵ, dè bỉu, ghen tỵ, chê bai… vẫn
thấy nhiều hơn ở trong sinh hoạt văn học so với việc hân hoan khi có một
tác phẩm mới ra đời.
Trở lại hình ảnh Tô Hoài ở đầu bài viết này, tôi nghĩ dù ông có tự nhận
mình là "cò con" thì hình ảnh của ông trong lòng bạn đọc trước sau vẫn là
hình ảnh của một bậc tiểu thánh trong văn học Việt Nam hiện đại.
Khi bị tình phụ người ta làm gì?
Vậy khi nhà văn bị tình phụ thì họ làm gì?
- Họ không viết nữa.
- Có thể!
Tết Giáp Thân 2004
Ngày Nay,
số 4, ngày 15/2/2004
Sự kiện Hoa thủy tiên [2] -
phần 2 bài viết của Nguyễn Huy Thiệp
eVăn: Gần đây, báo Ngày Nay
có đăng làm nhiều kỳ bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “Trò
chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” (Ngày
Nay, các số 4, 5, 6, ra các ngày 15/2, 1/3 và 15/3). Bài viết của
ông Thiệp đang gây tranh luận gay gắt trong làng văn nghệ Việt Nam. Đến
nay đã có rất nhiều ý kiến phản hồi của các nhà văn và nhà phê bình. Để
giúp bạn đọc có thông tin về sự kiện này, eVăn chọn đăng những bài tiêu
biểu đã được công bố trên các báo và tạp chí. Dưới đây là phần 2 bài viết
của ông Nguyễn Huy Thiệp trên báo Ngày
Nay, số 5.
Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (phần 2)
- Nguyễn Huy Thiệp -
1. Vẻ đẹp của văn học
Trong các bộ môn nghệ thuật, văn học thường được đặt lên hàng đầu
bởi những đặc thù riêng của nó. Thế nào là một tác phẩm văn học đẹp? Xưa
nay, trong các thông báo giải thưởng cho một tác phẩm văn học, nếu chú ý -
chúng ta đều thấy người ta thường rất lúng túng và thường gán cho tác phẩm
ấy những ý nghĩa có khi ở ngoài văn học. Cái đẹp - sự hoàn hảo trong một
tác phẩm văn học rất khó xác định. Thế nào là đẹp? Rất ít khi người ta tâm
phục khẩu phục một cách tuyệt đối một tác phẩm văn học, vì thế trong dân
gian đã từng có câu "văn vô đệ nhất" (khác với võ: "võ vô đệ nhị").
Leonardo de Vinci đã từng phát hiện ra tỷ lệ vàng trong quy ước về cái đẹp
của con người (1: 1,641). Nghiên cứu xã hội học về cái đẹp của phụ nữ
người ta thường gắn với một loạt những tiêu chí như: khỏe mạnh, gợi tình,
trẻ trung, thông minh v.v. Một tác phâm văn học đẹp có lẽ cũng phải có một
số những quy định nào đấy về ngôn ngữ, cấu trúc câu, hình tượng, bố cục
v.v. Ở ta, công việc của nhà nghiên cứu phê bình văn học chính là ở sự chỉ
ra, hướng dẫn bạn đọc phát hiện ra cái đẹp trong những tác phẩm văn học
liên quan rất mật thiết đến quan niệm thẩm mỹ của xã hội, của "không gian
sống" đương thời, đến một yếu tố mà ta vẫn quen gọi là "hiện đại". Một hoa
hậu của năm 2004 nhất thiết phải là một "cô gái chân dài" chứ không thể cứ
lùn tịt như cô Thị Mịch của Vũ Trọng Phụng trong những năm 30 của thế kỷ
trước. Một câu văn hay cũng khác, không thể biền ngẫu như là ngày xưa. Yếu
tố mới lạ của ngôn ngữ được đưa vào tác phẩm hiện đại theo tôi phải là yếu
tố số một cho việc đánh giá một tác phẩm văn học giá trị. Sự biến hóa của
ngữ pháp, việc sáng tạo ra những cấu trúc phù hợp với cách cảm, cách nghĩ
của Việt Nam hiện đại cũng là một tiêu chí phải xem xét. Khi người ta hỏi
Nit-sơ rằng ông tự hào gì về các giá trị tinh thần vật chất mà ông đã có
trong đời ông thì ông nói rằng ông thích nhất bởi ông đã viết ra được
những cuốn sách bằng thứ tiếng Đức hay nhất. Một nhà văn xoàng khi viết ra
một câu văn anh ta chỉ có chừng "ba búa": hai, ba cách đặt câu để cho anh
ta lựa chọn mà thôi. Một nhà văn ngoại hạng không chỉ có "ba búa": anh ta
có tới hàng chục, hàng trăm phương án khác nhau. Việc tìm ra một câu văn
cho phù hợp đòi hỏi một cường độ suy nghĩ, cân nhắc hơn người: đấy chính
là thứ "lao động nhân văn" chết người, nhọc nhằn và gian khó không phải ai
cũng làm được.
Gần đây, trên báo Thể Thao Văn Hóa
số ra ngày 6.2.2004 có bài viết Vì sao
tôi đọc tiểu thuyết của Đoàn Minh Hà. Là nhà văn, tôi thích bạn
đọc có ý kiến như thế. Họ hiểu rằng nhà văn sinh ra là để "kể chuyện". Kể
chuyện hay! Có thế thôi. Giống như cầu thủ đá bóng: sinh ra là để đá bóng
giỏi. Chúng ta trong nhiều năm thiếu những bạn đọc "sans souci". Hiện nay
khi xã hội phát triển, tôi rất mừng vì bạn đọc đã có văn hóa hơn, "tử tế"
hơn. Có câu rằng: "Dân thế nào, vua thế ấy". Có thể suy thêm: có những bạn
đọc thế nào sẽ có những nhà văn thế ấy. Giở lại lịch sử ngày xưa, thấy tại
sao trong thời mới Thịnh Đường ở Trung Hoa nảy nòi ra Lý Bạch? Thơ Lý Bạch
được khen là thơ tiên phong vì phong độ, cốt cách, chí khí cao ngất. Ở
thời ấy, dân chúng ấm no, sung túc. Lý Thế Dân là ông vua cao minh giữ
được ổn định chính trị. Dân như thế, vua như thế, thời thế như thế thì sẽ
có một thứ văn học tuyệt vời như thế: cho đến bây giờ, thơ Đường với những
tên tuổi lừng lẫy vẫn là những đỉnh cao ở trên bầu trời văn học Phương
Đông và thế giới.
2. Doping văn học
Trong bài phê phán tôi,
Bùi Việt Thắng có chỉ ra chi chít những
nhầm lẫn của tôi. Tôi không sợ, vì đơn giản nếu tôi sợ thì tôi đã chẳng
phải là nhà văn. Nhà văn không đưa ra những bài học luân lý. Nhà văn chỉ
kể chuyện. Phật tổ đã nói: "Mở miệng là đã sai rồi". Chúng ta luôn luôn
sống trong những sự nhầm lẫn đan cài nhau. Bản chất cuộc sống, chân lý rốt
ráo trong cuộc sống chính là sự nhầm lẫn. Chúng ta chỉ có được những giây
phút ngắn ngủi của sự ổn định ôn hòa tương đối mà thôi, đấy chính là lý do
để cho ta sống, ta mong muốn, ta tiến lên, ta hoàn thiện mình, nó chính là
vẻ đẹp của cuộc sống vậy. Song song với việc kiếm sống để tồn tại, lấy vợ
lấy chồng sinh con đẻ cái, loay hoay láng cháng với vài ba niềm vui nỗi
buồn, vài vụ làm ăn, vài ba người tình, thấm thoắt năm, sáu chục xuân đã
trôi qua, thế là hết một kiếp người "đứng đắn". Xét trên bình diện thời
gian - đời người quả là phù du vô nghĩa. Trừ đầu trừ đuôi, thực ra đời
sống tràn đầy sung mãn, sinh lực, trong sáng tuyệt với của con người ta có
gì khác giò hoa thủy tiên trước mặt của tôi đây không: nở hoa thơm ngát
được đôi ba ngày rồi tàn lụi, cái gì qua đi là qua vĩnh viễn, chẳng có
cách chi lưu lại với đời. Sáng tạo văn học, nó cũng giống như bước nước
rút trong các cuộc chơi thể thao. Trước đó người ta phải tập luyện, tích
lũy. Chu trình đọc sách, "đi thực tế", suy nghĩ và viết lách đan cài nhau
trong cuộc sống thường nhật như là thứ "lao động thường xuyên, thiếu nó sẽ
không có cái thực sự vĩ đại" (A. Puskin). Khi ngồi vào bàn một vận động
viên sung sức có đủ 100%, thậm chí 120% năng lực và phong độ. Nhà văn Lê
Lựu đã từng ví việc viết văn như một ca sinh đẻ: người đẻ nhanh sao cho
"mẹ tròn con vuông". Ý kiến đó đúng. Trong nhiều trường hợp, Lê Lựu vẫn
luôn tỏ ra là một nhà văn không hào hoa lắm nhưng lại có những kinh nghiệm
thực dụng không chê vào đâu được. Việc nhà văn chuẩn bị cho một tác phẩm
mới ra đời là cả một chu trình lao động công phu đòi hỏi một sự tập trung
cao độ. Những nhà văn trẻ ít kinh nghiệm thường không coi trọng bước chuẩn
bị này, họ chủ quan tin vào "cảm hứng". Cảm hứng chỉ có thể giúp cho nhà
văn trẻ làm ra được một thứ sản phẩm đèm đẹp, một cái gì đó ngắm "lâng
lâng". Việc xây dựng một tác phẩm lớn, độc đáo đòi hỏi dứt khoát phải có
tính hệ thống, một tư duy tổng hợp và khoa học thế nào đấy, tôi đã từng
nói đến việc "tổ chức viết văn" ở một nhà văn của thời bây giờ: nào là sắp
xếp nhà cửa, công việc, chuẩn bị tiền nong, sức khỏe, chuẩn bị tư liệu,
chuẩn bị cảm xúc và nhiều thứ linh tinh khác. Không phải tự dưng có nhiều
người viết trẻ tìm đến sự trợ giúp từ rượu, thuốc lá, ái tình và thậm chí
ma túy. Nó giống như "doping" trong văn học. Sự căng thẳng trong tình cảm
và cảm xúc, cũng như sự tập trung cao độ trong quá trình viết lách ở nhà
văn khiến cho họ mệt mỏi. Tuy nhiên, không phải những chất "doping" ấy lúc
nào cũng có kết quả. Theo quan sát của tôi - đa số nó phản tác dụng. Sự
sáng tạo văn học thường không diễn ra giống như một cuộc thi đấu ngắn ngày
như ở thi đấu thể thao. Sáng tạo văn học đòi hỏi cả một môi trường: nó là
không gian sống, sự bình ổn nội tâm rất cao của người viết.
Gần như chẳng bao giờ có một không gian lý tưởng, có sẵn để cho nhà văn
làm việc "như ý". Đa số nhà văn phải tự sáng tạo, tự dựng ra một không
gian ảo giác cho mình để tiến hành công việc viết lách. Rất nhiều nhà văn
đã làm việc một cách cô đơn, họ cố tình xa lánh những thứ rắc rối không
cần thiết để tập trung vào công việc. Không phải tự dưng nhiều người vẫn
coi nhà văn là những con sói cô độc khó gần. Sự khó hòa nhập với đám đông
không có nghĩa là nhà văn không "nhập thế", không "ăn cùng nhân dân tôi,
thở cùng nhân dân tôi", không hát bài ca của họ.
Khoảng hơn chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không có những nhà văn có
phong độ, khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng không phải là những nỗi
buồn lớn. Thái độ hời hợt của xã hội với văn học, cách tiếp nhận của xã
hội đối với các giá trị văn học cũng làm mất đi cảm hứng ở nhiều nhà văn
nhiệt thành. Đấy là chưa kể đến sự tráo trở và lạnh lùng của cơ chế thị
trường vẫn chẳng nể nang gì ai cả.
3. Văn học hiện nay thiếu gì?
Câu hỏi đó do một nhà báo trẻ đặt ra với tôi. Tôi thấy rất khó
trả lời. Nó có vẻ như một câu hỏi dành cho Hội Nhà Văn nhiều hơn là cho
một cá nhân nhà văn nào đó. Trên bình diện chung, hầu hết chúng ta đều
thấy như văn học thiếu vắng những tham vọng to lớn. Năm ngoái, khi đến
Thụy Điển, tham dự Hội chợ sách Goterborg, tôi hết sức ngạc nhiên trước
không khí văn học hăng say ở đó. Thật hệt như một giấc mơ! Niềm yêu mến
với sách, với văn học là không chối cãi. Không thấy thái độ hoài nghi,
khinh bạc với văn học. Không thấy thái độ hoài nghi, khinh bạc với cuộc
sống nói chung. Trước giờ phút công bố giải thưởng Nôben văn học, tất cả
bầu không khí tựa như ngưng đọng. Hầu hết mọi người đều căng thẳng và cảm
động. Rõ ràng ở đây văn học có một vị trí xứng đáng trong đời sống cộng
đồng. Ở Việt Nam, mấy năm gần đây văn học bị đưa ra đùa rỡn nơi công cộng
và xem thường. Nhà văn bị ngờ vực. Việc biểu dương một số nhà văn trẻ
"trong tầm tay" có một cái gì giả tạo. Văn học luôn tránh né một vấn đề
nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải khó khăn kinh tế, không
phải sex, không phải là tình cảm chiến tranh… Nó là vấn đề nhân tính.
Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng tượng,
lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc
lõi, oái oăm, đôi khi đểu cáng.
Để có một nhà văn có giá trị nhân đạo cao phải dựa trên rất nhiều yếu tố.
Người ta vẫn quen nghĩ rằng đó là do những nỗ lực cá nhân và chỉ là những
nỗ lực cá nhân mà thôi. "Văn hay do cùng". Lối nghĩ đó vẫn phổ biến trong
xã hội. Nó là lối đi tự phát, rèn luyện mà thành, lập nghiệp từ không
chuyên, ỷ nhiều vào "năng khiếu". Có lẽ đã đến lúc người ta phải nghĩ đến
một "typ" nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã hội phát triển. Họ
viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm. Trước đây, ở Việt
Nam hầu như chưa có những điều kiện xã hội để xuất hiện "typ" nhà văn này.
Trước mặt tôi đây là giò hoa thủy tiên thơm ngát. Tôi biết rằng cả đời
tôi, rồi cả hoa cũng chẳng còn mãi trên đời này. Thời gian trôi đi, giống
như sóng biển kia vỗ bờ, giống như dã tràng kia xe cát, sự sống rồi cứ
tiếp nối nhau không ngừng như thế đầy, vô cùng vô tận.
- Mặc kệ chuyện thị phi
Tết Giáp thân 2004
Ngày Nay,
số 5, ngày 1/3/2004
Sự kiện Hoa thủy tiên [3] - phần 3 bài viết
của Nguyễn Huy Thiệp
eVăn: Gần đây, báo Ngày Nay
có đăng làm nhiều kỳ bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “Trò
chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” (Ngày
Nay, các số 4, 5, 6, ra các ngày 15/2, 1/3 và 15/3). Bài viết của
ông Thiệp đang gây tranh luận gay gắt trong làng văn nghệ Việt Nam. Đến
nay đã có rất nhiều ý kiến phản hồi của các nhà văn và nhà phê bình. Để
giúp bạn đọc có thông tin về sự kiện này, eVăn chọn đăng những bài tiêu
biểu đã được công bố trên các báo và tạp chí. Dưới đây là phần 3 bài viết
của ông Nguyễn Huy Thiệp trên báo Ngày
Nay, số 5.
Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (phần 3)
- Nguyễn Huy Thiệp -
1. Cái khó của nghề văn thời nay
Trong khoảng hơn một thập kỷ đổi mới, xã hội Việt Nam đã tiến
những bước nhảy vọt về nhiều mặt, Việt Nam đã hoà nhập được với nhiều nước
ở trong khu vực và trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra trên
nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế và tri thức bất chấp những tư tưởng
cục bộ và "sô-vanh" bất hợp tác. Về văn học, những cố gắng trong và ngoài
nước đã làm cho nhiều nhà văn "thức thời" ở ta nhận ra được con đường gian
khó nhưng cũng nhiều triển vọng ở trong nghề nghiệp của mình. Khi xã hội
phát triển, nhu cầu hưởng thụ và làm ra những sản phẩm văn học nghệ thuật
có phần nào tưởng như dễ dàng nhưng lại khó vô cùng. Tôi rất ngạc nhiên và
không thích thái độ kỳ thị và xem thường việc xây dựng nên những công nghệ
ở trong lĩnh vực giải trí, trình diễn như ca nhạc, tạp kỹ v.v.. Việc đào
tạo, đánh bóng nhằm tạo ra những ngôi sao ca múa nhạc tạp kỹ hoặc thể dục
thể thao lv.v.. là rất cần thiết. Ngay trong lĩnh vực văn học, đáng lẽ cần
phải khuyếch trương, xây dựng thành một công nghệ đào tạo nhà văn mới thì
vài năm trở lại đây lại có ý kiến bỏ đi trường viết văn Nguyễn Du. Bỏ thì
dễ nhưng xây thì khó. Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người
già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều… "vô học", tự phát mà
thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những
người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù
phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng
thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí
nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả. Giai thoại có một nhà
thơ nói về tình cảnh thơ ở trong bài thơ sau đây (tôi đã đưa chuyện này
vào trong tiểu thuyết của tôi vì nó quá hay) khá tiêu biểu cho thực tế đó:
"Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/ Hôm qua nó
bảo: Dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn/ Hôm nay lại bảo: Dí l… vào
thơ!", tôi cũng không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với
thơ nhưng quả thực trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ
là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng
nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh
nữa.
Tôi biết sẽ có nhiều người phản ứng lại điều tôi nói "trắng phớ" ra như
thế nhưng ở đây nó là thực tế. Tôi chỉ nói ra một thực tế "tàn nhẫn" mà
mọi người vẫn tránh né hoặc "không nỡ" nói ra mà thôi. Đã đến lúc người ta
phải nhìn vào thực tế để thúc đẩy văn học cũng như thúc đẩy xã hội phát
triển.
Trên kia tôi đã nói đến việc xây dựng một công nghệ đào tạo nhà văn, tôi
ủng hộ ý kiến nên xây dựng một vài khoa viết văn ở các trường đại học ở
ta. Viết văn phải trở thành một nghề nghiệp, một nghề nghiệp chuyên nghiệp
chứ không thể nghiệp dư, tuỳ hứng được. Những nhà văn được đào tạo trong
nền công nghệ đó phải có những tiêu chuẩn và trình độ chuyên môn nhất
định. Nó không phải là toàn bộ chân dung văn học trong xã hội đó. Khi hoà
nhập với thế giới bên ngoài luôn luôn có những sự trao đổi hợp tác giữa
các nhà văn các nước. Lớp nhà văn cũ không còn phù hợp: họ không biết
ngoại ngữ, không biết vi tính, họ chỉ có quá khứ, họ không thể trò chuyện
và đối thoại "tay đôi" được với bên ngoài về những vấn đề của thời hiện
tại. Trong sinh hoạt văn học, ở khía cạnh nào đó, việc viết ra được những
"bài văn" cũng chỉ là một việc ngày nay người ta thực hiện một cách dễ
dàng: đa số sinh viên đại học đều có thể làm được không khó khăn lắm.
Khuôn mẫu " nhà văn cổ điển" chưa chắc đã là duy nhất đúng, phù hợp và nên
noi theo đối với những thành niên tham gia vào công việc văn học trên tinh
thần "xã hội hoá". Tôi đã thấy trong những chương trình " trò chơi âm
nhạc" trên ti-vi, người xem cũng hát, cũng biểu diễn có khi chẳng kém gì
những diễn viên chuyên nghiệp. Khi văn học "xã hội hoá" cũng sẽ xảy ra một
cái gì tương tự như thế, nhất là khi Internet phát triển. Văn học - cũng
như nhà văn sẽ ngày càng dân chủ hơn, thường hơn và vì vậy ngay cả những
vấn đề về lý luận văn học cũng không phải cứ mũ cao áo dài và giữ nguyên
cung cách chuyên chế, áp chế kiểu "các cụ" mãi được.
Trong xã hội phát triển, văn học rất thường nhưng để vượt lên, trở thành
một cái gì đó ngoại hạng là rất khó. Hình mẫu thiên tài văn học ngày nay
khác trước rất nhiều. Trong sách giáo khoa văn học người ta thấy rõ văn
học đã bị đông cứng lại, cũ kỹ và "phản động": nó cứ ê a mãi những "song
viết" và "song kiết", học sinh chỉ nghiên cứu và học tập "những thây ma
cũ" hoàn toàn không được "tiếp máu" bởi những sinh lực văn học cường tráng
và lành mạnh.
Nếu như khoảng 20 năm đến 30 năm nữa danh sách Hội viên Hội Nhà văn ở ta
có tới hơn 80% nhà văn (chứ không phải nhà thơ) khoảng ở độ tuổi 25 đến 50
tuổi thì đấy mới là việc hợp quy luật. Ở ta vẫn có câu: "ốm tha, già
phải". Văn học, đối tượng của nó là những người trẻ tuổi. Nó không phải là
sân chơi của "đám giặc già lăng nhăng thơ phú". Trước Tết Nguyên đán tôi
có ngồi dự một bữa tiệc tất niên ở nhà kỹ sư Đào Phan Long với nhiều tên
tuổi văn nghệ sĩ khá lừng danh trên đất kinh kỳ. Nhà thơ Trần Ninh Hồ đọc
một bài thơ phóng dật trong đó có câu: "Ông lão lục tuần đi trong sương
gió/ Sương gió không biết ông lão lục tuần". Hay thì hay thật nhưng tôi
cũng hơi sờ sợ những ông lão lục tuần … gân quá!
2. Trên con đường văn học
Thực ra, trên con đường văn học thì có rất nhiều lối đi khác
nhau, "mọi con đường đều dẫn đến thành Roma", có người đến trước, người
đến sau, người đứt gánh giữa đường, người đến đích hăm hở, người đến đích
thân tàn ma dại, có người đến đích vinh quang, có người đến đích với cả
bầu đoàn thê tử v.v… Tạo hoá tuyệt vời và rộng lượng sẵn lòng mở ra cơ hội
cho tất cả mọi người không trừ ai cả. Nhưng cảnh giới văn học ở mỗi hạng
cũng khác nhau và sự phong phú có vẻ vừa dân chủ vừa mất dân chủ ấy đã làm
nên sự hấp dẫn chết người của văn học. Tôi không hề coi những ý kiến của
tôi là chân lý, tôi chỉ nêu ra những suy nghĩ "nhầm lẫn" để mọi người
trong giới văn học xem xét mà thôi. Văn học tác động đến xã hội bằng con
đường ngầm, "phi chính phủ" và rất trực tiếp. Khi một nhà văn "phát sóng",
những độc giả có cùng tần số "bắt sóng" ấy, tiềm năng trong họ được đánh
thức và giời mới biết họ sẽ làm gì. Khi những phương tiện thông tin đại
chúng phát triển, các môn nghệ thuật giải trí phong phú, chức năng giáo
dục được trải rộng, nó không còn chỉ đặt lên mỗi đôi vai còm cõi của văn
học ngày xưa nữa. Nếu chúng ta chú ý nhìn một chút thì sẽ nhận ra con trẻ
ta ngốn những truyện tranh manga còn nhiều hơn sách văn học tỉ tỉ lần.
Chúng không đọc " Những cánh buồm đỏ thắm" của Grimm, "Dế mèn phiêu lưu
ký" của Tô Hoài nữa mà dành thời gian đó cho "Đôrêmon" hoặc các siêu nhân.
Trong Hội nghị Lý luận văn học ở Tam Đảo năm 2003, chẳng thấy có một tham
luận nào dành cho văn học thực sự. Không còn ai cứu trẻ con nữa. Tất cả
những người "hành nghề văn học" ở ta đều muốn "dĩ hoà vi quý", đều muốn có
nhưng cuộc chơi đèm đẹp, chơi có thưởng, không ai muốn " hy sinh" nữa.
Trong chuyến về nước năm ngoái, nhà văn Phạm Thị Hoài nhận xét : "Ở trong
nước, những người viết văn hiện nay sống sướng quá, nhà nước, xã hội yêu
chiều, cưng chiều họ quá. Ở nước ngoài khó khăn khổ sở hơn nhiều, rất
nhiều". Tôi nhận ra sự ngậm ngùi trong nhận xét của Phạm Thị Hoài. Nhận
xét đó không hẳn đã đúng nhưng cũng là một ý kiến đáng để cho những nhà
văn có lương tâm ở ta xét lại. Trên báo chí, thỉnh thoảng vẫn thấy các nhà
báo "rồ lên" vì có tin nhà văn này, nhà văn kia "ẵm" các giải thưởng, nhận
tiền tài trợ. Chuyện này hay dở thế nào chưa bàn. Nó cũng chỉ là một mặt "
bề nổi" của văn học, theo tôi cũng là tốt. Nhưng - một khi dư luận văn học
thực sự chỉ rồ lên vì cái "bề nổi" ấy thì cũng chưa hẳn đã "có lương tâm".
Trong truyền thống, văn học đồng nghĩa với sự thanh đạm. Sinh hoạt văn học
(nói rộng ra là cả sinh hoạt tinh thần) ở ta - ít nhất là ở Thủ đô - theo
tôi hiện nay là thảm hại, chẳng có gì đáng để người ta quan tâm, say sưa.
Tất nhiên trên thực tế, ở đâu có một cuốn sách hay, một bài viết hay những
người quan tâm đến văn học đều cố tình đọc qua không bỏ sót. Rõ ràng văn
học vẫn có cách tồn tại riêng của nó và vẫn âm thầm "đi những bước sấm
đông rền" (Goethe) trên con đường hẹp, con đường định mệnh gian khó dành
riêng cho nó. Văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính. Một xã hội
không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác phẩm văn học giá
trị nghĩa là nhân tính mất đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở một người
nào mà nó ở toàn xã hội.
Khi nói về nhân tính xưa nay các nhà lý luận văn học thường cũng chỉ mới
đề cập một chiều đến lòng tốt, đến cách cư xử quân tử v.v... Người ta
không nhìn thấy "bộ mặt thứ hai" của nhân tính mặc dầu "các cụ" ngày xưa
cũng đều đã cảnh tỉnh cả rồi: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương"
(Nguyễn Đình Chiểu), "Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương" (Nguyễn Du) v.v…
Cái gì cũng có hai mặt (thậm chí vài ba mặt) kể cả "nhân tính". Độc giả có
kinh nghiệm văn học rất dễ nhận ra những khuôn mặt ngụy quân tử trong các
tác phẩm của các nhà văn. Dối trá, đạo đức giả - người ta chỉ đọc có vài
ba trang là nhận ra liền. Không phải tự dưng mà các nhà văn cổ điển luôn
luôn nói về sự trung thực ở nhà văn và trong lao động văn học. Thế nào là
trung thực? Trung thực với mình, với người, với xã hội, với chữ nghĩa. Văn
điêu, văn ma, phò nịnh, "nên thơ" v.v… là thứ rất dễ ngộ nhận. Có nhiều
tác phẩm, người ta vẫn phải đọc, vẫn phải chấp nhận mặc dầu ai nấy đều
cũng có "cảm giác" là nó thối tha, song - như tôi đã nói, thời đương đại
bao giờ cũng có "không khí" suy đồi, cần phải có một thời gian rất dài thì
những cái xác suy đồi mục nát ấy mới mất hết đi cái mùi ô uế của nó.
Biết làm sao bây giờ?
3. Lời kết thay cho hoa thủy tiên
Ngày Tết, đi mua giò hoa thủy tiên tôi mới ngã ngửa ra rằng tất
cả giống hoa thủy tiên ở ta đều được nhập từ Trung Quốc. Không phải thủy
tiên mà rất nhiều loài hoa khác nữa, thậm chí cả đào! Đi vào các hiệu
sách, vẫn thấy văn học hiện đại Trung Quốc chiếm thượng phong ở trên giá
sách. Về nhà mở ti-vi, phim truyền hình Trung Quốc vẫn thu hút người xem
đông nhất. Văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng của Trung Quốc tất nhiên rồi,
xưa nay vẫn thế. Tôi ngắm nhìn giò hoa thủy tiên và nghĩ ngợi nhiều. Để
hoa thủy tiên nở đúng vào lúc giao thừa là cả một nghệ thuật vun trồng,
gọt tỉa công phu. "Chơi hoa nào đã mấy người biết hoa" vốn là thói đời
phàm tục. Một tác phẩm hợp thời, ra đời đúng lúc cũng là một nghệ thuật,
có người còn coi nó là số mệnh tác phẩm. Song le, những "tác phẩm đi trước
thời đại" bao giờ cũng sẽ chẳng hợp thời. Ngồi buồn giở báo ra xem, thấy
có mấy bác Hai Lúa ở Nam Bộ (Trần Quốc Hải, Lê Văn Danh) chế tạo ra máy
bay trực thăng để phun thuốc trừ sâu cho mía mà cười ra nước mắt. Tôi
thích câu kết của nhà báo Nguyễn Hồng Lam: "Tinh thần sáng tạo rất đáng
khâm phục. Đáng tiếc, mơ ước ấy đã vượt quá sự cho phép của giới luật. Đột
nhiên giật mình tự hỏi: trăm năm trước, anh em nhà Wiright đã gặp may vì
không gặp các thứ luật định văn minh bó buộc. Nếu không, đến bây giờ chắc
gì có ngành hàng không với những chiếc máy bay tung cánh bốn phương trời?"
(báo An ninh thế giới ra ngày 19/02/2004). Trong văn học, không còn nữa
những cuộc thí nghiệm giống như chuyện làm ra máy bay trực thăng. Để biết
văn học đổi mới, chỉ cần dịch sách Trung Hoa xem là đủ. Nó cũng giống như
giò hoa thủy tiên kia, nhập vào với giá rẻ như bèo chẳng phức tạp gì, thả
sức chơi "te tua" trong thời gian Tết.
Này hoa thủy tiên, tôi ước chi đây là giống hoa của người Việt Nam trồng
ra trên đất Việt Nam. Vệ Tuệ, Miên Miên, Cửu Đan… ước gì đấy sẽ là những
tên tuổi của các nhà văn Việt Nam?
Xã hội Việt Nam đang ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Luôn luôn
có những cơ hội dành cho tuổi trẻ. Trong lĩnh vực văn học cũng vậy. Vấn đề
là phải có tình yêu với nó. Không có tình yêu thì chẳng làm gì được cả.
- Và với "một mẩu bánh mỳ con con" [1] nữa chứ?
- Tất nhiên rồi!
Tết Giáp Thân 2004
Ngày Nay,
số 6, ngày 15/3/2004