vhvt |
tự do tư tưởng và sáng tạo |
văn hóa thế giới |
|
Bản dịch Truyện ngắn
(Tchekhov) Vương Trí Nhàn Thời trung đại, các cụ ta hồi xưa sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán và việc đọc sách chữ Hán cũng tự nhiên như cơm ăn nước uống hàng ngày, nên trừ một vài trường hợp hiếm hoi, loại như Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, còn nói chung trong văn học Việt Nam lúc đó không tồn tại khái niệm tác phẩm dịch.
Bước sang đầu thế kỷ XX, mặc dù hướng vào việc xây dựng một nền văn học theo mẫu hình phương Tây, các nhà tiên phong cũng chỉ bắt tay dịch một thời gian để giúp vào việc dạy, học, và ổn định chữ quốc ngữ; tiếp đó sáng tác càng phát triển thì dịch thuật càng thưa thớt, thường chỉ được làm một cách ngẫu nhiên, rồi xuất hiện lót đót đây đó. Trong hoàn cảnh Đông Dương là một xứ được nước Pháp bảo hộ, học sinh học bằng tiếng Pháp ngay từ bậc tiểu học, công việc dịch văn chương gần như là không được đặt ra bởi không thành một nhu cầu cấp thiết. Thỉnh thoảng người ta cũng thử dịch chơi một chút, chẳng hạn, vào khoảng 1940-42, trên báo Ngày nay, Thế Lữ,Thạch Lam, Khái Hưng chia nhau dịch một ít truyện ngắn của những Daudet, Maugham, Pirandello… sau làm thành hai tập Hương xa và Hoa lạ, hoặc Lan Khai dịch Bức thư của người không quen của Zweig vv…
Dịch thuật chỉ được khởi động mạnh mẽ từ sau 1945 mà lực lượng tham gia đầu tiên chính là chính những người viết. Ngay từ hồi ở Việt Bắc, Hội Văn nghệ Việt Nam đã có tiểu ban dịch thuật. Trên tạp chí Văn nghệ, Tố Hữu dịch Hành khúc của Aragon, Đợi anh về của Simonov, Phan Khôi dịch Chúc phước của Lỗ Tấn. Được in ra thành sách, còn có Vũ Ngọc Phan với Misa cua Polevoi, Ngô Tất Tố với Suối thép của Serafimovich, Trời hửng của Vương Lực, Phan Khôi với Thù làng của Mã Phong, Hoàng Trung Thông với Sáu bài thơ Maiakovski ( tất cả đều đã được ghi vào anh mục sách của Nhà xuất bản chuyên in thơ truyện hồi kháng chiến chống Pháp, là nhà Văn nghệ ).
Đặt trong cái mạch nói trên, thì tập Truyện ngắn tuyển tập (Tchekhov lúc đó còn viết là Sê—khốp) là một sự nối tiếp tự nhiên. Nhìn vào danh sách người dịch, chúng ta bắt gặp ở đây những tên tuổi như Nguyễn Thành Long,Trần Dần, Thuỵ An, Phạm Hổ, Nguyễn Văn Sĩ. Nhất là chúng ta bắt gặp một trong những tên tuổi hàng đầu của văn học Việt Nam thế kỷ XX là Nguyễn Tuân.
Ai cũng biết sinh thời, Nguyễn Tuân là một người đọc nhiều và đặc biệt thích những tác giả lớn. Trong các bài viết đây đó, người ta thấy ông nhắc tới từ Andersen, Gogol, L.Tolstoi, Dostoievski tới Reoger Martin du Gard, B. Brecht, từ Charle Chaplin, Eisenstein tới Rener Clair, Pablo Picasso. Cả những tác phẩm cổ điển lâu đời lẫn những của hiếm của độc riêng có trong thế kỷ XX, không gì tốt đẹp của nhân loại xa lạ với ông Nguyễn.
Tuy nhiên trên giấy trắng mực đen, tức là xét tổng số chữ nghĩa Nguyễn Tuân đã dành cho một nhà văn nước ngoài và cái phần cốt cách người đó hằn lên trong tâm trí ông, để lại ảnh hưởng, tồn tại như một sự kiện của cuộc đời ông, thì phải kể Tchekhov. Vào thời điểm cuốn Truyện ngắn này ra đời, trong giới xuất bản ở Việt Nam chưa có ý niệm về người biên soạn. Và tôi cũng chưa từng được nghe ai kể là cuốn sách đã hình thành như thế nào. Nhưng tôi ngờ chính Nguyễn Tuân là người đầu têu cho công việc, tức là người "gà"cho nhà xuất bản làm tập truyện này và đứng ra bao thầu cho sự hình thành cuốn sách về mặt nội dung. Bảo ông A. dịch truyện này, ông B dịch truyện nọ. Tự tay dịch một số. Rồi ghép lại thành tập. Rồi lo chạy Sĩ Ngọc vẽ cho cái ca-ri-ca-tuya hình tác giả làm phụ bản. Và không cần nhiều tưởng tượng lắm cũng đoán được là khi tập sách in xong, ông cũng hoan hỉ nhìn nhận nó như một đứa con tinh thần của mình. Trước mắt tôi là bản in lần thứ nhất cuốn sách mà Nguyễn Tuân đã ký tặng Nguyễn Khải vào ngày 31-X-1957 (về sau ông Khải đã cho tôi và tôi giữ đến ngày hôm nay mang ra tái bản). Nguyễn Tuân vốn xem nghề văn là cái nghiệp thiêng liêng và không bao giờ cẩu thả trong giao thiệp. Việc nhà văn năm đó tuy mới 47 tuổi nhưng đã rất già dặn trong nghề mang tặng một người bạn trẻ (năm ấy Nguyễn Khải mới 27) một cuốn sách mình chỉ dịch một phần -, bản thân nó, cũng đã nói lên một phần những tâm huyết mà Nguyễn Tuân đặt vào trang sách.
Tuy không ai tuyên bố chính thức, nhưng xem cái cách đối xử với người dịch và sách dịch ở ta hiện nay thì có thể tóm tắt đại khái với nhiều người, dịch sách là một công việc không mấy nặng ký. Muốn có ý nghĩa sáng tạo, phải là đi làm thơ viết văn. Chứ dịch ấy ư? Chẳng qua bất tài không sáng tác được mà lại có may mắn được học một ít ngoại ngữ nên anh mới đi làm thứ công việc hạng hai đó. Dịch không phải là chỗ để người ta có thể lên tiếng đóng góp với đời. Dịch không thể tạo ra một tên tuổi. Ấy đại khái người ta cứ nguýt dài mà chê bai như vậy. Có biết đâu ở những tài năng đồng thời lại là những người có vốn học như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân thì việc dịch được quan niệm khác hẳn. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói Xuân Diệu đã mang lại cho người yêu thơ Việt Nam một cách hiểu khác đi về thơ, khi dịch N. Hikmet, B.Dmitrova, một Xuân Diệu như vậy cũng tự hào coi những trang thơ dịch như chính sáng tác của mình.
Riêng với Nguyễn Tuân, phải nói bản dịch Tchekhov lần này chính là một hành động văn học với nghĩa đầy đủ của từ này. Cái sự dụng công mà ông Nguyễn đặt vào bản dịch bao gồm nhiều việc, kể cả cái việc tưởng như rất nhỏ là cách gọi tên nhân vật. Ai người đã đọc sách dịch từ trước 1945 đều biết rằng có một hồi, muốn cho nhân vật trong các truyện phương Tây quen với hoàn cảnh Việt Nam, người dịch có một lối đặt tên lại, chẳng hạn Manon Lescaut được đổi là Mai Nương Lệ Cốt, Turcaret được gọi là Tục ca lệ, Roméom Juiliette được gọi là Lộ Miêu, Duy Liên hoặc Lộ Minh, Duy Lan. Nguyễn Tuân đã làm như vậy, ông đưa vào đây thày quản cu-lít Phát, lão quản Bi, chị Na; đọc truyện ông dịch, người ta thấy anh đánh xe ngựa Doan đánh xe xuống phố Vi, hoặc lão Binh-bô-rông thuê xe tới hiệu Diêm Ký. Tôi xin miễn không bình luận rằng cách làm như thế này là hay hay dở, riêng cái việc ngày nay nó bị xã hội từ chối không được tiếp tục làm theo, đã là một kết luận dứt khoát không ai cãi lại nổi. Nhưng cho phép tôi nói một kỷ niệm nhỏ. Một câu đùa xoay quanh chuyện một cô gái sống với cái ám ảnh của mấy thanh âm nó làm thay đổi cả cách cư xử của cô và biết đâu cả cuộc đời cô. Câu nói đóng vai trò một cái chốt đó trở đi trở lại đến năm lần trong thiên truyện chưa đầy hai ngàn chữ tiếng Việt. Và nó đơn giản chỉ là thế này:
- Na ơi, anh yêu em!
Không rõ người khác đọc truyện thế nào, phần tôi, từ lúc đọc thiên truyện đó lần đầu hơn bốn chục năm về trước đến ngày hôm nay, cái câu năm tiếng gọn lỏn đó nó đã hằn vào trí nhớ. Truyện Một câu đùa trở thành truyện Na ơi, anh yêu em. Và không biết tôi có phạm tội thậm xưng, tội nói lấy được (?), song nhiều lúc nghĩ vân vi cứ có cảm tưởng năm tiếng kia sẽ không khắc sâu vào tâm trí tôi đến thế, nếu nó không được Việt hoá, tức còn giữ nguyên cái hình hài như trong tiếng Nga ( Nadia, anh yêu em).
Đối với trường hợp của lão quản Prisybiev mà ông Nguyễn gọi tóm lại là quản Bi, người ta cũng có thể nói về hiệu quả tương tự. Việc đặt cho nhân vật những cái tên Việt Nam, chỉ là dấu hiệu dễ thấy của một cố gắng lớn lao hơn, mà cũng khó thực hiện hơn là việc Việt hoá toàn bộ thiên truyện, làm cho nó trở thành như là do một nhà văn bậc thày Việt Nam viết ra vậy. Gần đây đã có người cho rằng cả tập Truyện ngắn Tchekhov in năm 1957 không giữ được chất Nga trong nguyên bản. Rất chịu cái nhận xét có lý đó, song tôi nghĩ điều đó không sao cả, ai có nhu cầu đọc các bản dịch Tchekhov dịch thẳng từ tiếng Nga cứ đọc, và chính tôi nữa, khi muốn tìm hiểu chất Nga của Tchekhov, tôi cũng sẽ tìm. Còn như những khi muốn thưởng thức Tchekhov, muốn coi Tchekhov như một nhà văn, qua trang sách tâm sự chuyện trò với mình trò chuyện bảo ban mình về cách sống cách nghĩ, tôi xin được phép cứ tìm đọc và muốn mọi người cùng đọc Tchekhov qua ngòi bút của những Nguyễn Tuân, Trần Dần, Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long... mà chúng ta đang bàn. Cũng xin nói ngay là cái cách hiểu về dịch phẩm của tôi ở đây không phải lập dị trái khoáy gì mà ở nhiều nước, người ta cũng có quan niệm tương tự. Trong một tài liệu giới thiệu về khoa phiên dịch nói chung (1), một nhà nghiên cứu là Nguyễn Nam cho biết: phiên dịch hiện nay không còn bị bắt chết vào một nghĩa cụ thể. Sự trung thành với nguyên bản không còn là giáo điều duy nhất buộc phải chấp nhận. Mà nay nó được xem như một quá trình xử lý văn bản với nhiều nghĩa khác nhau. Đi xa nhất trong việc này là nhà nghiên cứu André Lefevre, ông bảo hành động dịch thuật có thể được hiểu như một thứ tái trứ tác (rewritings), nói nôm na là viết lại, viết một lần nữa, việc này vẫn được các bậc thày trong văn học ưa sử dụng để cải biên cái ngoại lai, cho nó phù hợp với thủy thổ của nền văn học mà bản dịch đi tới. Nghe những quan niệm ấy thấy nó rất ứng với cái cách mà Nguyễn Tuân đã dịch. Đọc những trang Tchekhov hoá thân vào văn phong của tác giả Vang bóng một thời, người ta bắt gặp những con người cứ y như là người Việt mình, họ chuyện trò quan hệ với nhau, bẻ hành bẻ tỏi nhau, rồi lại sùi sụt thề thốt với nhau trên nền cái khung cảnh cũng là ở một làng quê phố huyện Bắc bộ nào đó. Cái đó không phải là một cái tội! Không phải Nguyễn Tuân đớn gì trong việc chuyển ngữ, cũng như trong việc tạo không khí cho dịch phẩm mà mình muốn giới thiệu với bạn đọc. Ngược lại, phải yêu quý dịch phẩm lắm, xem nó như chính tác phẩm của mình, một nhà văn - ở đây là một tên tuổi như Nguyễn Tuân - mới mạnh tay mà làm vậy. Người ta đã nhận xét rằng khi họa chân dung người khác, Nguyễn Tuân đồng thời làm một cuộc trình bày chân dung chính mình. Tôi cho rằng trong cái sự cầm bút ngồi dịch, Nguyễn Tuân cũng vậy. Ông thấy đây là một công việc thiêng liêng. Ông không chỉ chuyển nghĩa cứng nhắc như người dịch vẫn làm, mà có thể nói đã sinh đẻ lại tác phẩm, từ đó tạo ra cho các thiên truyện một giọng điệu riêng, một thứ Tchekhov của riêng ông. Dịch là một cách để ông viết những điều ông hằng nghĩ.
Đã say trong việc dịch, Nguyễn Tuân lại còn để rất nhiều tâm huyết vào bài giới thiệu Tchekhov đặt ở đầu sách. Trừ bài Thời và thơ Tú Xương viết về sau, in trong tập Chuyện nghề, chưa bao giờ cây bút phê bình nghiên cứu ở Nguyễn Tuân ra vai một cách đàng hoàng như vậy. Ông ngược lên tiểu sử nhà văn. Ông duyệt lại các tác phẩm Tchekhov, kể cả những vở kịch mà lúc đó hầu như chưa ai biết gì. Ông dẫn lại điệp trùng những đoạn Gorki, Elsa Triolet ca tụng người đồng hương vĩ đại của mình (Elsa cũng gốc Nga). Và nhất là ông liên hệ văn phẩm của Tchekhov với hoàn cảnh Việt Nam.Với thói quen hay sục sặc sinh sự, Nguyễn Tuân "bỏ nhỏ "mấy câu ghi chú bên cạnh thiên truyện Con hoạt đầu:
Ở bản dịch tiếng Pháp, tên truyện là Caméléon. Caméléon là một loài bò sát; ở miền Nam gọi tên nó là con kỳ nhông. Kỳ nhông có đặc tính là thay đổi màu sắc để tự vệ mỗi khi cần phải thích nghi với hoàn cảnh thiên nhiên. Con Caméléon nói ở đây là một anh nịnh, nịnh trên nạt dưới. Người dịch tạm cho mình cái quyền dịch tên truyện không theo nghĩa đen mà dịch theo nghĩa bóng. Thực ra trong loài bốn chân không có con gì trong vạn vật học, mang tên là con hoạt đầu. Có lẽ chỉ trong xã hội loài hai chân mới thấy có cái con này.
Nếu lại chú ý tới mấy câu ghi chú Hà Nội cuối tháng bảy 1957, một ngày lụt cạn, một ngày hàn khẩu một con đê bên kia sông ( ), người ta phải nhận rằng ông đã viết mấy chục trang tiểu luận ấy theo kiểu một nhà văn; những văn phẩm tưởng như xa lạ kia hoá ra có liên hệ ngay với đời sống trước mắt, và cái ông nhà văn ở mãi tịt mù bên Nga-la-tư kia, như một con người đang sống, được triệu về để chia sẻ nhiều điều tâm sự trước thời cuộc.
Muốn hiểu cho hết bài giới thiệu Tchekhov mà Nguyễn Tuân đặt ở đầu sách, người ta phải quay về với cái không khí của mấy năm sau hoà bình lập lại tức khoảng 1955-57, ở Hà Nội.
Từ kháng chiến trở lại thủ đô, đời sống xã hội nói
chung cũng như văn nghệ nói riêng mấy năm ấy đặt ra những vấn đề gay go
rắc rối hơn bao giờ hết. Sáng tác trong nước không chứa hết được những
ngổn ngang vừa đến trong lòng người. Để có được những câu giải đáp, một số
cây bút đầy tâm huyết và có điều kiện đọc rộng quay ra tìm ở văn học nước
ngoài. Đọc lại một số nhà văn hàng đầu hồi ấy, người ta thấy rằng những
tên tuổi lớn của thế giới đã có mặt: Trong nhật ký, Nguyễn Huy Tưởng không
chỉ để cho dòng suy nghĩ của mình nương tựa vào I. Ehrenburg, A. Tolstoi
mà còn nhắc tới H. Ibsen, A. Gide. Trong tập
Những bước đường tư tưởng
của tôi, Xuân Diệu đã dẫn lại từ A. Musset, P. Verlain…đến
Politzer, Howard Fast. Chính lúc ấy, với tư cách một nhà văn Nga được
Gorki tôn sùng, Tchekhov đã có mặt. Trong khi chúng ta quen nói về những
gì hào hùng cao đẹp thì Tchekhov nói về những chuyện mè nheo vô vị vủa
cuộc đời. Trong khi chúng ta quen nghĩ rằng cái gì cũng có thể làm được
thì Tchekhov nói nhiều đến sự bất lực. Trong khi chúng ta quen bảo cái gì
cái gì cũng rành rẽ, và tương lai sẽ hiện ra xán lạn, thì Tchekhov bảo
rằng cuộc đời nhiều khi mờ mờ xam xám, không biết rồi nó còn trôi giạt đến
đâu. Tóm lại, Tchekhov có thể là bạn đồng hành của những ai, khi phải đối
mặt với cuộc đời đa đoan rắc rối trước mắt, mang một chút hoài nghi lành
mạnh chứ không chịu đi theo những khuôn khổ có sẵn. Tác phẩm Tchekhov làm
được những gì mà sách dịch của NXB Văn
nghệ khoảng 54-56, như Anh
thương binh về làng (Aleksei Tolsoi),
Chiến sĩ và Tổ quốc (Nguỵ
Nguy), Tam lý loan (Triệu
Thụ Lý )… không thể làm nổi. Lại có cả những vấn đề lý luận đang nổi lên
trong đời sống mà trong khi mầy mò tìm kiếm người ta phải viện dẫn tới
sáng tác của Tchekhov. Bấy giờ người ta thường tranh cãi với nhau chung
quanh trách nhiệm của các nhà văn trước thực tế. Một cách ngẫu nhiên -
hoặc để dùng lại một chữ mà Nguyễn Tuân hay dùng - theo sự
thanh khí lẽ hằng, Tchekhov có
mặt. Nhân bàn về Viết sự thật,
Xuân Diệu có mấy câu lèo cả Tchekhov vào. Theo Xuân Diệu có một loại nhà
văn nói tất cả cái đau xót của xã hội, nói rất thiên tài, nhưng rồi dẫm
chân tại chỗ không biết làm sao thoát ra được - mà Tchekhov chính là tiêu
biểu. Và thế là Nguyễn Tuân thấy cần phải cãi lại Xuân Diệu để chiêu tuyết
cho Tchekhov. Ông tìm thấy ở Tchekhov cái thái độ cần và đủ mà một nhà văn
nên có trước đời sống. Dù là sau này Nguyễn Tuân sẽ
nghĩ khác đi, nhưng đúng là vào khoảng thời gian 1956-57 này, với tác giả
Vang bóng một thời,
Tchekhov là một thứ chân trời mà ông hướng tới. Văn chương Tcheskhov vốn
có gì mờ đục, không thích hợp với những thời đại quá đơn giản, quá rực rỡ,
thì trong hoàn cảnh của mấy năm 1956 –1957, lại tỏ ra khá thích hợp với xã
hội Việt Nam và nhất là thích hợp hơn cả với một người vừa rắc rối vừa
thích rành mạch như ông Nguyễn.
Bản dịch Truyện ngắn
(Tchekhov) Vương Trí Nhàn Trong lịch sử văn học thế giới, người ta không bao giờ quên ghi danh hai người đồng hương vĩ đại của Tchekhov là L.Tolstoi và F. Dostoievksi. Bên cạnh cái phần khác nhau rõ rệt, giữa hai ông có một sự giống nhau là biết gợi ra những vấn đề trừu tượng bậc nhất của con người. Nhưng chính vì tư tưởng của hai bậc văn hào quá lớn, nên người đời thường nhìn hai ông theo lối "kính nhi viễn chi". Nếu không dối lòng, chúng ta phải nhận là nhiều lúc đọc các ông thấy ngợp, xa lạ, hụt hẫng. Tchekhov thì khác. Sự sâu sắc ở ông thường được giấu kín trong cái vẻ gần như tầm thường, chính vì vậy, khi phát hiện ra, chúng lại có cái sự hấp dẫn riêng. Có thể hình dung Tchekhov như đi cùng đường với chúng ta, nhìn thấy mọi thứ như chúng ta, nhưng bao giờ cũng đi xa hơn một đoạn.
Đây là một số ví dụ:
Những người khác nói rằng con người đáng thương trong sự đau khổ. Còn với Tchekhov, con người đáng thương ngay trong lúc họ hạnh phúc và đạt được mục đích.
Nhân danh tinh thần dân chủ, một số nhà văn thích lý tưởng hoá những sinh linh bé nhỏ, bất hạnh.Tchekhov thì khác. Ông để một nhân vật phát biểu: "Những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo, nghiệt ngã, và ít khả năng hiểu người khác hơn cả những người đần độn" - Một nhận xét như vậy, nếu không phải là của một tác giả cỡ như Tchekhov, chắc bị nhiều người cự tuyệt.
Sự vô nghĩa của cuộc sống được Tchekhov xem như một tai hoạ. Còn sự trống rỗng là cái mà Tchekhov sợ hơn cả:
“Một cánh đồng cỏ khô chạy dài, đơn điệu và hoang vu như sa mạc, chắc cũng không làm cho người ta thấy tẻ nhạt, chán chường, như một người ngồi đó, nói năng uể oải và không biết bao giờ mới chịu bỏ đi.”
Trong thế giới của Tchekhov, ngay cả những nhân vật thuộc loại tốt đẹp cũng không biết làm gì. Ngược lại, những con người thấp hèn bất hạnh đôi khi cũng biết nói lên những điều hết sức sâu sắc. Thế giới dở dang vậy, nhưng theo cách trình bày của tác giả, dù đã trở thành chán ngấy, nó vẫn đẹp biết bao, nó đáng cho chúng ta sống.
Thời gian qua đi, khoa nghiên cứu về Tchekhov ngày càng có rất nhiều khám phá, những khám phá này có liên quan đến kịch Tchekhov, và nhất là những tác phẩm ông viết khoảng mươi mười lăm năm cuối đời, loại như Câu chuyện tẻ nhạt, Ngôi nhà có căn gác nhỏ, Huân chương hoàng hậu Anna, Volodia lớn Voloddia bé …
Đứng ở góc độ này mà xét, phải nhận là nhiều phương diện làm nên tài năng Tchekhov chưa được bộc lộ trong tập Truyên ngắn in ra 1957. Hoàn cảnh lúc ấy chưa cho phép Nguyễn Tuân và các đồng nghiệp làm nhiều.
Tuy nhiên, chỉ trong phạm vi của các truyện ngắn đã in, Tchekhov cũng đủ trở nên thân thuộc với bạn đọc, nhất là với các nhà văn Việt Nam.
Ngoài khá nhiều câu chuyện linh tinh về các nhà văn đồng nghiệp đương thời, một trong những chủ đề mà nhà văn Nguyễn Khải thường nói với tôi vào khoảng những năm 1968-70 (khi chúng tôi cùng công tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội) là những tác giả tác phẩm của văn học Pháp và Nga mà Nguyễn Khải vừa đọc và từng gợi ý cho ông trong sự sáng tác. Ông kể với tôi về những bài báo Sartre in trong các tập Situation (Nhận định). Về những cuốn carnet (sổ tay) của Camus. Về ông Thượng đế "cái gì cũng biết" Tolstoi, về thiên tài tàn ác Dostoievski. Mặc dù bấy giờ chung quanh là một không khí thời chiến đặc quánh, nhưng công việc của đám người viết bao giờ cũng thế, phải lùi ra xa mà nghĩ, lùi ra xa để thấy những vấn đề chung của đời sống nó bao trùm lên cuộc sống con người, bất kể là chiến tranh hay hoà bình. Bởi vậy chúng tôi mới có lúc nhẩn nha nói những chuyện đâu đâu như vậy. Chính là trong không khí tùy nghi đó mà một lần Nguyễn Khải ngồi giảng cho tôi về một truyện ngắn của Tchekhov:
- Đọc lại thấy Tu sĩ áo đen cũng ghê. Này, có ngu thì mới bảo là trong đó Tchekhov lên án thói vĩ cuồng, hoặc nói nôm na là cái bệnh háo danh tầm thường. Không, chủ đề của Tchekhov ở đây sâu sắc hơn nhiều. Ông muốn bảo với người ta rằng chính là nhờ có ảo tưởng mà sức lực con người ta lại được giải phóng.
Tương tự như trong mẩu chuyện trên đây về Nguyễn Khải, Tchekhov còn nhiều phen có dịp đi về trong những câu chuyện hàng ngày của những nhà văn nhà báo mà tôi có quen: Nguyễn Thành Long, Trần Đĩnh, Huy Phương, Nguyễn Kiên... Hoặc như với Nguyễn Minh Châu, bên cạnh Lỗ Tấn, thì nhà văn nước ngoài mà ông chịu hơn cả, cũng là Tchekhov.
Thuở ban đầu, điều làm chúng tôi thú vị là mấy tính cách nhân vật loại như Con hoạt đầu, Quản Bi. Rồi chúng tôi thích cái lãng mạn bàng bạc trong cuộc sống kiểu như Một câu đùa và mãi về sau mới dừng lại lâu hơn ở những Người trong bao (bản dịch 1957 cải là Người mang vỏ ốc), hoặc Phòng số 6 (bản dịch in trên báo Văn ). Khi đã vào sâu hơn trong nghề, biết những cái khó cái dễ của việc cầm bút, chúng tôi lại sẽ thích nói với nhau về những bài học nghệ thuật ở nhà văn này, chẳng hạn một trong những bí mật, nó là một trong những đặc sắc lỳ lạ của văn xuôi Tchekhov, là cái cách mà một nhà văn tham dự vào câu chuyện được kể.
Vượt lên trên những thiên truyện cụ thể, còn phải nói tới một điểm nữa là số phận của chính Tchekhov ở Việt Nam, những giận dỗi bất thường mà ông phải chịu, nó cũng là một khía cạnh độc đáo liên quan tới quá trình Tchekhov thâm nhập vào đời sống văn học đương thời.
Nguyên là, theo thông lệ của việc làm sách dịch ở Hà Nội, các tác giả cổ điển thường không bị đặt trong thế cần cảnh giác, tức là họ dễ được "xài" hơn tác giả hiện đại. Thế nhưng thử nhìn vào bảng kê các tác giả văn học cổ điển Nga thế kỷ XIX, người ta vẫn không thể cãi lại một sự thực là trong khi L.Tolstoi được ưu tiên hàng đầu thì F. Dostoievski bị ghẻ lạnh, Chiến tranh và hoà bình được in ra từ 1960, còn Tội ác và trừng phạt thì, không kể bản in ở Sài Gòn, mãi tới 1983, bản dịch của Cao Xuân Hạo mới được phát hành rộng rãi. Trước đó, Dosstoievski bị coi là có những tư tưởng không hợp thời, và không đáng được giới thiệu. (3)
Tchekhov mà chúng ta đang nói cũng là một trường hợp tiêu biểu cho sự nóng lạnh trong lối tiếp nhận lúc này, dù là nóng lạnh đỏng đảnh theo một cách khác. Những việc mà Nguyễn Tuân và nhóm dịch giả đã làm cho Tchekhov như vậy là quá nhiều, gần như không ai trong số các nhà văn nước ngoài có được may mắn tương tự. Nhưng chính đó lại là cái cách diệu nhất khiến cho Tchekhov bị đánh dấu, nói nôm na là bị coi cùng một duộc với những người đã đứng ra dịch. Cả một khoảng trắng còn đó: Từ sau tập Truyện ngắn này, một thời gian dài, Tchekhov vắng bóng trên các giá sách ở Hà Nội. Không kể tập kịch Tchekhov in ra năm 1961, thì phải hai mươi năm sau, tới 1978, một tập truyện ngắn của ông (in làm hai cuốn) mới lại được giới thiệu với công chúng. Nếu các bản dịch trước đây thông qua tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, thì về sau, đó là các bản dịch từ tiếng Nga. Nhiều người nhấn mạnh tới sự chính xác của các văn bản để giải thích sự chậm trễ. Song theo tôi hiểu,lý do chính ở đây là sự ngần ngại. Bản thân cái việc có mặt vào năm 1957 nhốn nháo đã làm cho Tchekhov mất đi vẻ trung tính bình thường của một nhà văn nước ngoài để nhận lấy cách tồn tại trong thầm lặng. Không chỉ không được làm sách mà suốt những năm sáu mươi và gần hết những năm bảy mươi, Tchekhov còn không được dịch in trên báo, không được nghiên cứu và rất ít khi được các tài liệu chính thức trích dẫn.
Xét trên một phương diện nào đó thì những hạn chế trong việc xuất bản ấy có làm cho Tchekhov khó đến với bạn đọc. Song trong thực tế, nó lại tạo nên một sức thu hút. Người ta, nhất là các nhà văn, truyền tay nhau những bản thảo cũ. Và nhất là như trên đã dẫn, người ta hay bàn về Tchekhov. Các tác phẩm của ông được tiêu hoá lặng lẽ hơn kỹ lưỡng hơn.
Ở một đoạn khác, trong bài viết về phiên dịch học ở trên đã dẫn, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam còn nhắc tới một nhận xét của nhà nghiên cứu Susan Bassnet, nó cũng là một khái quát quan trọng cần chú ý khi nghiên cứu các dịch phẩm:
"…quá trình phiên dịch văn bản từ một hệ thống văn hóa này sang một hệ thống văn hóa khác không phải là một hoạt động trung tính đơn thuần và hiển minh (...) Phiên dịch đã đóng một vai trò cơ bản trong chuyển biến văn hoá và khi chúng ta khảo sát quá trình lịch đại của thực tiễn phiên dịch, chúng ta có thể biết được rất nhiều về vị thế của các nền văn hoá tiếp nhận trong quan hệ với các nền văn hoá của văn bản nguyên thuỷ".(4)
Nói cho cụ thể, tức là khi một cuốn sách của một tác giả Nga (hay Trung Hoa, Nhật Bản) được dịch ra tiếng Việt thì bản dịch đó không chỉ thông báo với chúng ta về xã hội Nga (hay Trung Hoa, Nhật Bản), mà điều không kém phần quan trọng là thông báo về chính xã hội Việt Nam.
Trường hợp tập truyện ngắn Tchekhov in 1957 là một minh hoạ xác đáng cho những nhận xét nói trên. Nó đã trở thành một vật chứng cho cái giai đoạn văn học mà nó ra đời, và trong việc này, mặc dù chỉ có tư cách một dịch phẩm, nó có phần vượt hẳn lên trên, so với các sáng tác xoàng xĩnh, để đứng ngang hàng với những tác phẩm quan trọng của các nhà văn trong một giai đoạn mang tính cách giao thời.
Lẽ thường, yêu ai đó thì cố tìm ra chỗ người đó gần gũi với mình. Tình yêu với Tchekhov cũng đã lôi cuốn một số nhà văn và nhà nghiên cứu vào cái công việc thú vị là so sánh ông với các tác gia Việt Nam. Có người bảo ông gần gũi với Nguyễn Công Hoan. Lại có người thấy bóng dáng của ông trong Nam Cao. Phần tôi, tôi nghĩ cả hai trường hợp này đều không phải. Anh béo và anh gày, cũng như Cái chết của viên công chức, Cái mề đay, Những giọt nước mắt đời không trông thấy …là những truyện rất hay và cũng là những truyện được nhiều người đọc nữa, nhưng không thể thu hẹp Tchekhov ở loại văn phong này, nên sự so sánh với Nguyễn Công Hoan là không có cơ sở. Còn như đọc Nam Cao, thấy có gì gắt quá ráo riết quá, người viết chăm chú vào ý nghĩ của mình đến mức không cho người đọc một chỗ nào thừa để suy nghĩ, nói chung văn Nam Cao thiếu sự lùi xa, thiếu cái khoảng khoát hồn nhiên có đượm một chút hư vô, nên giữa nhà văn này với Tchekhov là cả một độ chênh về cách nghĩ, họ như hai loại cây khác hẳn nhau, không thể so sánh.
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, trong hoàn cảnh một đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, cuộc sống chúng ta hôm nay ồn ào tấp nập, con người lăng xăng đủ chuyện và thật lắm lời lắm lý sự. Ngược lại trong Tchekhov, con người muốn làm một việc gì đó, nhận ra có nhiều ý nghĩa trong việc sẽ làm, đã sắp sửa làm, rồi sau hết lại không làm. Nhưng tận bề sâu, sao giữa hai bên vẫn có cái gì gần gũi: Nói như nhà nghiên cứu N. Berkovski, thế giới mà Tchekhov miêu tả là một cái gì đã sờn mòn. Một cuộc sống dang dở lờ mờ tốt lờ mờ xấu tồn tại trong cái thế chờn vờn bảng lảng như bóng ma Đạm Tiên "sen vàng lững thững như gần như xa". Thiên nhiên thì đẹp mà con người mệt mỏi, bất lực. Hãy nhìn lại mình hãy ngẫm nghĩ xem thực ra mọi người đã sống tồi tàn tẻ nhạt đến như thế nào.Thật chua chát mà nghĩ rằng làm sao có thể đê tiện như vậy mà xuống mồ. Những ý nghĩ tương tự từ đâu đó thoáng hiện rồi hằn lên rõ rệt trong tâm trí và không sao dứt bỏ nổi.
Người mình thường ngầm cảm thấy gần Tchekhov ở những suy nghĩ kiểu đó chăng?
Nếu nói về sự độ lượng trong thái độ đối với con người, một cách nhìn tưởng như là dửng dưng mà lại đằm thắm trước đời sống, thì trong số các nhà văn Việt Nam, tôi thường nghĩ nhiều tới Thạch Lam; ở phần sâu xa của cách cảm cách nghĩ, Thạch Lam có những khía cạnh gần với Tchekhov; ở phần sâu xa của cách cảm cách nghĩ, Thạch Lam có những khía cạnh gần với Tchekhov... Nhưng chỉ chút chút mà thôi.
Dẫu sao, từ trước tới nay rất ít khi các tác giả nước ngoài được suy nghĩ theo hướng mang ra so sánh với các nhà văn Việt Nam như thế này. Phải nhận đây là một ngoại lệ thú vị. Chỉ riêng việc chúng ta phải nghĩ để nhận ra chúng ta khác với các nhân vật của Tchekhov thế nào cũng đã có tác động thức tỉnh. Nói cho to tát tức là Tchekhov đã trở thành một nhân tố kích thích quá trình tự nhận thức của xã hội Việt Nam. Mà tất cả khởi đầu chính từ cuốn Truyện ngắn tuyển tập làm năm 1957.
|
|
văn học khảo luận |
|