văn hiến việt tộc

tự do  tư tưởng và văn hoá

  văn hóa



 

 

 


Ai không là nhà “Việt Nam học”?

Lại Nguyên Ân


Lâu nay, khi nghe nói đến “Việt Nam học”, người ta nghĩ ngay đến công việc tìm hiểu nghiên cứu Việt Nam của các học giả nước ngoài. Chẳng hạn ông Nikolai Nikulin người Nga nghiên cứu văn học Việt Nam, ông David Marr trước ở Mỹ nay ở Úc nghiên cứu lịch sử Việt Nam, hoặc trong giới học giả trẻ hơn, ví dụ Anatoli Sokolov người Nga nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Quốc tế cộng sản, Peter Zinoman người Mỹ nghiên cứu về chế độ nhà tù thực dân Pháp ở Việt Nam, Emmanuel Poisson người Pháp nghiên cứu về giai tầng quan lại triều Nguyễn, v.v.

Người Việt sống và làm việc trên đất Việt có thể là nhà Việt Nam học được không?

Nếu lấy tiêu chí là tìm hiểu nghiên cứu Việt Nam thì có rất đông người Việt dính dấp với Việt Nam học. Ðó, chẳng hạn, các nhà giáo và nhà khoa học nghiên cứu và giảng dạy về địa lý, lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hoá, văn học nghệ thuật …Việt Nam. Giới văn nghệ sĩ không thể không dính dấp bộ môn này, vì hoạt động sáng tạo của họ, nếu được thực hiện nghiêm túc, chính là xoay quanh việc khám phá chiều sâu đời sống con người và xã hội Việt Nam. Có lẽ chỉ có một ít ngành một ít người tỏ ra “ly tâm” với Việt Nam học mà thôi, ví dụ công việc của các dịch giả (chuyên xúc tiếp với sách vở của nước ngoài ), của những người nghiên cứu và giảng dạy về nước ngoài (lịch sử, địa lý, văn chương nghệ thuật, v.v.); thế nhưng những người này dù sao ít ra cũng có góp phần làm giàu tiếng Việt, góp phần làm tăng lượng tri thức bằng tiếng Việt, tóm lại, không đứng ngoài, không vô can với Viêt Nam, với Việt Nam học.

Không cần thống kê thật kỹ cũng có thể nói rằng: phần lớn nhất trong lượng tri thức về Việt Nam tính đến nay là do các tác giả người Việt sản xuất ra. Ðây là điều rất bình thường, rất dễ hiểu, và “đội ngũ” những người sản xuất và cung cấp tri thức Việt Nam học theo ý nghĩa này phải được tính từ các tác gia sư tăng thời Tiền Lê, các tác gia nho sĩ thời Lý, Trần trở đi.

Gần đây, ở vài viện nghiên cứu hoặc trường đại học, người ta lập ra những bộ phận (khoa, ban…) với chuyên môn được xác định là “Việt Nam học”. Chuyện này nghe ra hơi …kỳ. Là vì, đã ở trên đất Việt này thì người nghiên cứu, dù làm địa phương chí, từ rộng (ví dụ dân ca miền Bắc, địa chất Tây Nguyên, dân cư lục tỉnh…), đến hẹp (ví dụ tiếng Huế, món ăn Hà Nội, tính cách Quảng Nam…) đều không ra ngoài nội hàm Việt Nam học. Thế thì “khoa” Việt Nam học trong một đại học, “ban” Việt Nam học trong một viện nghiên cứu sẽ triển khai “chuyên môn hẹp” của mình thế nào đây? Sẽ trùm lên tất cả các khoa các ban, hay rẽ vào những ngõ rất hẹp (ví dụ tương Bần, mắm Nha Trang, dưa cà Nghệ Tĩnh…)? Chưa trả lời được những câu hỏi loại này, những người được tấn phong (được cử ra cai quản các khoa các ban mới này) đã vội làm khao “tân gia” với những tuyên bố bốc đồng trước ống kính TV, tự coi mình là những kẻ đặt viên đá đầu tiên cho Việt Nam học, mặc nhiên vứt hết những Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Ðôn, Phan Huy Chú, đâu có tính chi đến những Trần Trọng Kim, Ðào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, v.v.!

Như đã nói trên, nghe mấy từ “Việt Nam học”, ta nghĩ ngay đến hoạt động nghiên cứu Việt Nam của người nước ngoài. Ðiều này có cái lý của nó. Người đứng ngoài, nhà nghiên cứu đứng từ xa mới gom tất cả những mặt rất khác nhau của Việt Nam mà họ cần tìm hiểu vào một đơn vị nghiên cứu của họ (người khảo về gốm Chăm Bàu Trúc cùng trường cùng viện với người tìm hiểu hát Then Tày Nùng…). Họ có Việt Nam học của họ cũng như giới học giả Việt Nam có Trung Hoa học, Hoa Kỳ học, Nga học, Ðông Nam Á học của mình vậy. Nét khác biệt căn bản ở đây là tư thế đứng ngoài của người nghiên cứu (chuyện này nói ở đây nghe ra có vẻ quá xa vời!).

Còn người Việt Nam ở Việt Nam nghiên cứu Việt Nam thì thường không tránh khỏi tư thế đứng trong. Ðấy lại cũng là điều tự nhiên, bình thường. Từ đầu thế kỷ 20, giới học giả trong nước đã xác định gọi đó là “quốc học”, tuy các cụ vẫn không ít băn khoăn “ta đã thực có quốc học hay chưa?”. Ở đời sống văn hóa từ 1945, ta thấy trong việc tổ chức nghiên cứu khoa học, giảng dạy đại học, nội dung Việt Nam mặc nhiên là trung tâm: môn sử ưu tiên dạy và học sử Việt Nam, môn văn tập trung vào tiếng Việt và văn học bằng tiếng Việt, ngành văn hoá dân gian tập trung hết vào folklore của các tộc người sinh sống trên đất Việt Nam,…ở chỗ nào cũng vậy. Nhưng không một ai, không một khoa một sở nào tự nhận mình là “chuyên về Việt Nam”. Và ai cũng nghĩ như thế là bình thường. Mà là bình thường thật, ngay với cách nghĩ khoẻ mạnh hôm nay.

Chỉ rất gần đây, sau khi dư luận đã quen dần với danh xưng “Việt Nam học” như là công việc riêng của các chuyên gia nước ngoài, một số người Việt (không rõ đã là “tác gia” chưa) mới tự nhận mình “chuyên về Việt Nam học”! Phải chăng do kinh nghiệm mất thương hiệu mắm Phú Quốc, võng Duy Lợi, bánh rế Bến Tre, thuốc lá Vinataba nên trong chuyện này cũng phải bước dấn lên một bước? (một bước…liều!)

Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, ngay trên đất Việt này rất có thể xảy ra chuyện người này trương biển “Việt Nam học”, người kia trương biển “quốc học” mà đều nhắm cùng một đối tượng, làm cùng một loại công việc, đơn xin tài trợ gửi đến cùng một địa chỉ. Lại còn những cái biển “Ðông phương học”, “Ðông Á học” và nhiều thứ khác nữa, biển trưng khác nhau mà nội dung chưa chắc khác nhau. Chỉ mong đừng gặp ngày xui, “Việt Nam học” của người Việt đừng đụng độ “quốc học”cũng của người Việt, dù trên bàn tiệc hay nơi đấu thầu.

Còn các “chuyên gia” đã hoặc sẽ ra đời từ những “lò” với biển trưng rất khác nhau nói trên, cũng sẽ rất nhanh chóng học được bài “dĩ bất biến…”, nghĩa là viết sẵn một bản tham luận, rồi tuỳ hội thảo nào với định hướng ra sao mà sửa nhan đề cho “tương thích”. Cứ như thế, ở hội thảo này bạn là nhà Ðông phương học, ở hội thảo kia bạn là nhà Ðông Á học, rồi tại nhiều hội thảo khác, bạn còn có thể là nhà thi pháp học, nhà tự sự học, nhà nghiên cứu so sánh, nhà sinh thái học, v.v. Và tất nhiên, nhà Việt Nam học!

Ngay các nhà báo chúng mình đây, ai dám bảo chúng mình đứng ngoài Việt Nam học?

Trong chúng ta đây, ai không là nhà Việt Nam học?

Hà Nội, 14-7-2004

 


Nguồn: Thế thao-Văn hoá, 20.7.2004

 

   

 


 

thẩm luận văn hoá


 


Tượng Phan Bội Châu


  01- Việt Nam học: Chưa mạnh ở... Việt Nam!                                                                                       Nam Giao
  02-
Ai không là nhà “Việt Nam học”?                                                                                             Lại Nguyên Ân
  03- "Việt Nam học: đó là số phận của tôi".                                                                                 Darya Mishukova 

  04-
Ai Điếu Nadezhda Mandestam [1899-1980].          Jennifer Tran chuyển ngữ.                     Joseph Brodsky 
  05-
Trần Khuê, ngôi sao lấp lánh.                                                                                                           Hoàng Tiến
  06- Sửa đổi luật xuất bản, có nên dừng ở một biện pháp dở dang?                                              Nguyên Ngọc
  07-
Sáng tác trực tuyến - Xu hướng phổ biến ở Trung Quốc-                                                                          DK 
  08-
Vì sao nghệ thuật thiếu vắng những sáng tác về xã hội đương đại?                      Báo Sài Gòn Giải Phóng 
  09- Tim Aline, một cô gái Thụy Sĩ tốt bụng.                                                                              T.Thủy - H.Giang 
  10- Karl Marx, Con đường Huyễn Hoặc của TS Nguyễn Nam Chân.                                                     Vũ Ký

vhvt 11
Trang bìa chính