vhvt

tự do tư tưởng và sáng tạo

  bàn luận



 

 
 

Phạm Toàn
Thế nào là lý luận?


1.

Ở Việt Nam mình, có nhiều khái niệm tồn tại mù mờ, không mấy khi được làm rõ. Nó dẫn đến cách dùng khái niệm mang đậm chất kinh nghiệm chủ nghĩa và cảm tính. Người dùng thì luôn luôn được lợi, vì họ dùng khái niệm theo nội dung được họ quy định, chỉ cuộc sống thực là chịu thiệt thòi. Chẳng hạn những cách dùng khái niệm như sau: Cậu ấy rất tích cực, nhưng còn nhiều thanh niên tính lắm, còn nghệ sĩ lắm.

Cuộc sống đổi mới chẳng làm thay đổi bao nhiêu cách hiểu sự vật lối kinh nghiệm chủ nghĩa kiểu đó. Gần đây nó còn lan sang lắm thứ tầy đình: một trong những chuyện lạ đó đây, ấy là có hẳn một Hội đồng lý luận trong khi khái niệm lý luận là gì dường như vẫn còn mù mờ nếu không nói là mờ tịt.

Hoàn cảnh tranh tối tranh sáng không làm cho lý luận sáng sủa thêm, song đã có Hội đồng lý luận thì cũng phải có nhà lý luận, nên đã dẫn đến sự xuất đầu lộ diện những nhà lý luận các kiểu. Xuất hiện đầu tiên là loại láu cá hơn đám bạn bằng vai phải lứa trong Hội đồng. Anh ta luôn luôn muốn tỏ ra là mình cao hơn một đầu so với họ. Bằng mấy cách như sau.

Cách thứ nhất là phải đoán nhanh và đoán trúng ý cấp trên. Cấp trên muốn hạ bệ cái gì, ban trên muốn đề cao cái gì, thế là phải “hiến kế” cho kịp thời. Người ta gọi mỹ miều đó là tác phong xông xáo, là có tính chiến đấu.

Nhưng trên địa hạt lý luận người ta không thể chiến đấu lối vũ phu. Nên nhà lý luận thành danh có cách làm ăn thứ hai, đó là phải phát huy sáng kiến. Thí dụ cái sáng kiến đề xuất đường lối lý luận phải là chủ nghĩa hiện thực hiện đại. Nối thêm cái đuôi hiện đại vào bất kỳ sự vật quen tai quen mắt nào, cốt để nó khác đi bằng mọi giá với những gì đã hết hấp dẫn. Chẳng hơn gì cách gắn đuôi Gorki từng làm: chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, tính lãng mạn cách mạng.

Sau đó là cách thứ ba: phải bằng mọi giá tỏ ra là mình có học. Phương cách dễ tiến hành nhất là trích dẫn sách Tây trước mỗi bài viết mang tính lý luận. Trích dịch sai cũng được, vì có mấy ai biết mà biên tập xét nét? Chẳng hạn, Critique de la critique mà dịch là “Phê bình của phê bình”, thì một em bé học tiếng Nga đến cách hai cũng sẽ dịch như thế, và dịch không sai. Nhưng sao nhà lý luận kia không chịu hiểu để dịch cho đúng hơn là Phê phán công việc phê bình cho thoát nghĩa và đậm đà bản sắc?

Nhưng đây không chỉ là chuyện hiểu đúng hoặc sai, và dịch sai hoặc đúng một tên sách. Điều quan trọng liên quan đến khái niệm lý luận, ấy là: anh bám lấy một ý của một ông Tây để lập luận, người khác lại bám lấy ông Tây ông Tầu khác (như kiểu ông Bakhtin hiện nay đang là mốt sành điệu ở mấy khoa Văn Đại học sư phạm), thế rồi chợt một hôm nào đó, Hồng Vệ Binh chúng nó hạ bệ các ông đi vì coi các ông ấy là “hữu” hoặc “tả” thì tính sao đây? Hay lại phải nhờ đến cái ban Tuyên Văn Giáo Huấn của Georges Orwell thường xuyên chỉnh đốn lại các “tài liệu lý luận cơ bản” để các nhà lý luận không bị chệch hướng?

Viết lý luận kiểu học trò thường cộng thêm thói huênh hoang tài liệu nước ngoài. Nhưng huênh hoang nên không thể đi vào thực chất. Chẳng hạn, cách đây lâu lâu, bỗng dưng ào lên trên những trang lý luận về cuốn sách của Roger Garaudy mà tên sách muốn dịch thật đúng phải là như sau: Về một chủ nghĩa hiện thực không hạn chế. Có người khi đó tưởng bở rằng sách của Garaudy sẽ “cứu” được tình trạng lý luận thảm hại của mình. Họ không biết rằng, học theo sách của Garaudy thì cũng chính là sự cáo chung chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Garaudy đã tìm cách “cứu” chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa bằng cách thay đổi nó hoàn toàn. Sách ra đời giữa thời chiến tranh lạnh, khi phe xã hội chủ nghĩa tưởng như đang thắng to, song Garaudy đã kịp nhận thấy nền văn học nghệ thuật có định ngữ xã hội chủ nghĩa (theo nguyên văn cách diễn đạt của ông) chỉ như những cành cây có lá có hoa được chặt về cắm lọ: tưởng chừng đó là một hiện thực, nhưng cái hiện thực đó sẽ sống được mấy nả khi cành héo hoa tàn? Tiếc rằng trong hàng ngũ các nhà lý luận ở Việt Nam biết có mấy ai đọc kỹ toàn văn sách Garaudy?

Vì thế mà dám nói huênh hoang đến những sai lầm của cả một thế kỷ, gấp tờ báo lại chả thấy sai lầm nào cả. Hoá ra người ta dùng mẹo “rứa biết rứa” đó thôi!


2.

Đó là một kiểu nhà lý luận, gọi bằng giáo sư Trần đi cho dễ nhớ. Bên cạnh ông giáo sư xứ Mệ có một kiểu nhà lý luận khác, không láu cá, đầy niềm tin vào sự dốt nát của mình trên từng trang sách đứng tên tác giả hoặc chủ biên. Tiêu biểu cho kiểu “nhà” thứ hai này là một viện sĩ họ Phạm. Người một thời gian khá dài một cốt một đồng với nhà lý luận họ Trần tại một Viện Khoa học vô tích sự nay đã giải thể.

Viện sĩ của chúng ta tin chắc rằng luận án tiến sĩ khoa học của mình là khuôn vàng thước ngọc về lý luận, nên ông đã dịch và in nó đến hai lần. Sở dĩ có bản in lần thứ hai không phải vì bạn đọc đặt mua nhiều, mà vì bản in thứ nhất chuyên chở một thứ văn chương tối nghĩa không ai hiểu nổi và đầy những lỗi cú pháp. Sau khi bị dọn vườn vào năm 1986, viện sĩ thuê người hiệu đính và cho tái bản, lần này còn in kèm cả bản dịch mục lục bằng tiếng Pháp. Một bữa kia vào năm 1987, viện sĩ người Nga V. V. Davydov sang thăm Việt Nam lần đầu và cũng là lần cuối cùng, được tặng hai cuốn Hành vi và hoạt động nọ, đã bỏ chúng vào sọt rác tại một khách sạn ở Sài Gòn. Người viết bài này đã nhặt lấy rồi ghi vào bìa phụ “nhặt được ở sọt rác, do Davydov quẳng đi” và một vị hiệu trưởng Cao đẳng sư phạm một tỉnh miền Trung đã lạy như tế sao để xin lại, nhằm bảo vệ đội bạn.

Chuyện đó chỉ bốn người biết. Chuyện sau này thì ai ai cũng có thể biết nếu chịu khó tra cứu tác phẩm ký tên viện sĩ.

Xin bạn hãy mở sách Tuyển tập tâm lí học Piaget (Giáo dục, Hà Nội, 1996) và. chưa cần xét nội dung, xin hãy đọc những lời giới thiệu để nhấm nháp văn chương câu cú của viện sĩ họ Phạm:

Tuyển một tập tâm lý học của Piaget để giới thiệu với các bạn thật là khó khăn. Trước hết, đó là khó khăn chọn những tác phẩm nào, vì Piaget để lại cho chúng ta một kho báu khổng lồ, tất cả chừng hơn 50 cuốn, có tới vài vạn trang về tâm lý học, giáo dục học, lôgic học và triết học, đầy ắp các số liệu thực nghiệm, mô tả sự kiện của đời sống tâm lý trẻ em, những lý giải cực kỳ sâu sắc lý thú, so sánh với biết bao các trường phái khoa học từ cổ chí kim, xây dựng lý luận, đưa ra lý thuyết… mà trong tập sách này chỉ phản ánh một phần nội dung cốt yếu của tâm lý học Piaget…”

Bạn sẽ đọc tiếp và thấy viện sĩ khoe nhờ giáo sư Vĩnh Bang, vốn trước là học trò và sau là cộng sự nổi tiếng của Piaget, và ông giám đốc Trung tâm lưu trữ Piaget ở Genève mà tôi có một ít tác phẩm của Piaget và các đồng tác giả với ông” và dĩ nhiên nhờ cái ân đó mà bạn đọc Việt Nam mới có dịp tiếp xúc với nhà tâm lý học vĩ đại kia (!). Xin bạn mở sách ra: trong 6 tài liệu chọn dịch, có 3 bản dịch từ tiếng Pháp, 1 bản dịch từ tiếng Anh, và 2 bản dịch từ tiếng Nga. Sự trung thực hiện ra ngay ở đó: chẳng hoá ra giáo sư Vĩnh Bang đã tặng nhầm cho ông viện sĩ những tài liệu không hoàn toàn bằng tiếng Pháp? Lối khoe mẽ tiếng Tây là điều ta đã biết khi phân tích cách làm việc của giáo sư họ Trần. Nó chỉ khoe khoang được ở đẩu đâu, chứ ở Hà Nội tài liệu của Piaget và về Piaget cứ gọi là đầy! Kẻ viết bài này biết rõ một nhóm từ suốt những năm 60 thế kỷ trước từng kiếm sống nuôi con ăn học đàng hoàng nhờ dịch và tóm tắt các công trình của Piaget và về Piaget lấy sẵn ngay tại hai thư viện lớn ở Hà Nội.

Tác phẩm huênh hoang khác nữa của viện sĩ họ Phạm là cuốn Tâm lí học Vư-gốt-xki Tập 1 (Giáo dục, Hà Nội, 1998). Bạn hãy đọc lời nói đầu và sẽ nhận định lấy về một con người thế nào đó:

Lục lọi tất cả tủ sách gia đình và tranh thủ mọi thời gian có thể có suốt ba tháng qua đến hôm nay mới có tập sách này, trước hết để tỏ lòng biết ơn nền tâm lí học Nga, các giáo sư và các nhà nghiên cứu tâm lí học Nga, trường ĐHTH Lômônôxôp Matxcơva và Viên Tâm lí học Matxcơva.

Phần thứ nhất gồm ba bài: bài “Lep Vưgốtxki nhà tâm lí học kiệt xuất của thế kỷ XX” tôi viết năm 1996 cùng khoảng thời gian với bài viết về J. Piaget, để gửi đăng trong một vài tạp chí trong nước nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh hai ông. Bài “Thân thế và sự nghiệp” mới viết trong tháng 3 vừa qua, dựa theo cuốn sách “Lep Vưgốtxki của Iarôsepxki và một số tư liệu cũng như thông tin, cảm nhận của tôi thu thập từ trước tới nay. Bài thứ ba có cùng tên gọi của cuốn sách này là một chương luận án tiến sĩ tôi tiến hành nghiên cứu từ 1973 đến 1976 và bảo vệ thành công tháng 6-1977.

Phần thứ hai gồm ba bài tôi đọc và ghi chép tóm tắt hồi 1973-1976. Trong này có một số đoận “…” là đoạn trích nguyên văn và nay tôi dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt. Các đoạn khác là tôi tóm tắt ý của tác giả, một số chỗ có ghi chú lời nhận xét, bình luận, cách tôi hiểu tác phẩm. Các đoạn này ghi phần lớn bằng tiếng Nga và có phần bằng tiếng Việt, bây giờ đọc lại, hiểu lại, có phần suy ngẫm và ít nhiều có liên hệ với các thành tựu tâm lí học trong mấy chục năm qua, viết ra bằng tiếng Việt cho có mạch văn để người đọc có thể đọc được. Ấy là hi vọng như thế! Về phần mình, tôi đã cố gắng giữ được tinh thần cốt lõi của các tác phẩm. Ba tác phẩm in trong phần này của tập sách này là ba tác phẩm nói lên được “Tâm lí học Vưgốtxki” mà đã được kiểm nghiệm trong một chương của luận án đã được các nhà tâm lí học hàng đầu ở Liên Xô hồi đó đánh giá.

Phần thứ ba gồm ba bài tôi dịch tác phẩm của Vưgốtxki, một bài dịch hồi 1975-1976, hai bài mới dịch năm nay. Ở đây không có sự lựa chọn: may mà có được như vậy là đưa vào tập sách này.»


Tôi đã cố ý trích khá dài lời văn và ý tưởng của ông viện sĩ họ Phạm để bạn đọc tự mình tìm cách tiêu hoá hoặc đào thải. Rành rành một giọng văn của người tự cho mình là có lý luận, tự thấy mình có nhiệm vụ dẫn dắt bạn đọc bằng cả những ghi chép của mình (như những ghi chép của Lê-nin vậy).

Sự cao ngạo của người dốt suy cho cùng có nguyên nhân: chỉ vì người ta không định nghĩa được rành mạch Lý luận là gì.


3.

Vậy, thế nào là lý luận?

Tôi đã cố ý định nghĩa khái niệm lý luận bằng cách đưa ra hai kiểu làm lý luận, bên cạnh anh láu cá có anh đần, cả hai đều vỗ ngực dạy đời. Hai cách làm “lý luận” đó đều vô bổ, không có ích gì cho đời cả. Cuộc đời thật cần đến cách làm lý luận khác hẳn kia!

Ta hãy xét một vài trường hợp về những nhà tư biện vĩ đại.

Charles Darwin lênh đênh trên con tầu Beagle của thuyền trưởng Robert Fitz-Roy, tích luỹ vô vàn dữ kiện địa chất, thực vật, động vật và phân bố địa lý sinh vật. Ông dùng các tư liệu thu thập được để tư biện về lý thuyết Nguồn gốc các loài trong đó ông đưa ra giả thuyết về sự chọn lọc tự nhiên, sự cạnh tranh sinh tồn, và do đó về khả năng tạo ra những giống mới, chất lượng cao hơn các giống đã có. Ngày 24 tháng 11 năm 1859, sách của ông in ra bán hết trong một ngày. Sự kiện đó không chứng tỏ tài in sách của các đầu nậu, mà chứng tỏ tính chất không thể thiếu vắng của lý luận Darwin đối với sự phát triển trí tuệ loài người.

Ông thầy dòng nhà thực vật học Gregor Johann Mendel, người phát hiện những quy luật di truyền học, thì lại có đóng góp kiểu khác về lý luận. Sinh ra ở Tiệp, học trường dòng Brno, năm 1848 được phong chức và học vật lý, thực vật, động vật và cổ sinh vật học ở đại học Vienne, rồi lại trở về Brno dạy học. Tại đây ông thày tu nhà giáo âm thầm hai mươi năm nghiên cứu đủ thứ, nhưng thành tựu quan trọng nhất là việc ông lai tạo những quả đỗ. Những thí nghiệm của ông tạm đủ để đưa ra hai nguyên lý cơ bản, một là việc di truyền một đặc tính nhất định mang tính chất trội và hai là việc di truyền mang tính chất độc lập hai ba hoặc nhiều hơn một đặc tính.

Khác với trường hợp Darwin, những kết quả nghiên cứu của Mendel không có ngay tiếng vang lớn, và phải đợi hàng chục năm sau, đến 1900 mới được Hugo De Vries, Carl Correns và Erich Tschermack “khám phá lại”. Và cũng phải đợi nhiều chục năm nữa con người mới tìm thấy các thể nhiễm sắc, rồi đến lúc bản đồ gen phát hiện đầu thiên niên kỷ mới chỉ là bước đi tưởng chừng như là quá thênh thang.

Jean Piaget, nhà tâm lý học Thuỵ Sĩ, lại nổi tiếng với những công trình về trí khôn trẻ em. Ông xuất phát từ công việc ghi chép các số liệu đo IQ con trẻ, song ông lại tò mò đến những lập luận của những em bé có những câu trả lời sai so với đáp án. Những số liệu ông thu thập được, cộng với những số liệu thực nghiệm hình thành trí khôn, đã đưa ông tới lý luận về sự phát sinh trí thức của con người từ tấm bé tới tuổi thiếu niên, cơ sở vô cùng cần thiết để một nền giáo dục có thể đi đúng hướng.

Xem xét ba trường hợp nhà lý luận trên, ta thấy họ có chung cách làm việc giống nhau:
Ở một giai đoạn ban đầu, đó là sự tích luỹ tư liệu sống, điều kiện sống còn để có một giả thuyết khoa học.

Tiếp đó là giai đoạn tác động vào thực tại, nhằm tạo ra một thực tại theo đòi hỏi cao nhất của cái lý thuyết mà họ định xây dựng nên.

Tiếp đó là sự mở rộng cái thực tại trong phòng thí nghiệm thành cái thực tiễn rộng lớn, nhằm đóng góp những điều tốt đẹp cho cuộc sống thực, mà khi ấy, cái lý luận họ có bị buộc phải đặt bút viết ra chẳng qua chỉ là những dịp để “kiểm điểm” và “điều chỉnh” chính mình.

Ta có thể thấy, công việc tạo ra những công trình lý thuyết của các nhà lý luận đó hoàn toàn nhằm chia sẻ với cộng đồng khoa học, đó không phải là cơ hội cho họ khoe khoang hoặc tồi tệ hơn, giành lấy dịp chửi bới kẻ khác. Chưa kể là, mấy người trong cái Hội đồng lý luận nếu thực bụng định đổi mới công tác lý luận ở Việt Nam thì họ có gì trong bụng để xứng đáng được coi là những nhà lý luận? Họ không lăn lộn với cuộc sống. Họ lờ tịt không khen không chê những tác phẩm đang được dư luận chú ý. Họ ậm ừ phát biểu đôi ba lời cho phải đạo, đôi khi điểm xuyết vài lời bông phèng làm duyên nhằm che lấp những yếu kém. Họ hoàn toàn không tạo ra nổi một thực tại gì theo đúng đòi hỏi của cái mớ “lý luận” họ thích đặt bút vẽ ra. Và đều kỳ từng dịp kỷ niệm ngồi viết dăm ba điều vô thưởng vô phạt chứng minh một ý tưởng trích dẫn của ông Tây bà đầm nào đó.

Thử đừng chửi talawas nữa, thử đừng lên giọng trịch thượng dạy đời nữa, thử xem họ còn có khả năng gì đóng góp hay ho cho lý luận?

Huy động tất cả sự khoan dung, ta chỉ còn biết chờ.

Biệt thự Thu Trang, 20-7-2004

© 2004 talawas

 

   

 

 

văn học  khảo luận


 

 
  37-
Làng văn một thời, và...                                                                                                            Bùi Minh Quốc 
  38-
Xung quanh cuốn Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh.                                                                   Tích hợp
  39-
Thế nào là lý luận?                                                                                                                            Phạm Toàn 
  40-
Văn phong của nhiều nhà khoa học cũng kinh lắm!                                                                          Tuổi Trẻ 
  41- Coi sách cọp.                                                                                                                                             Lý Lan 
  42- Trao đổi cùng ông Vương Trí Nhàn về chuyện ‘Với độc giả, chúng ta là người có lỗi’.                 Sưu tầm 
  43- Một sai lầm thế kỷ trong lý luận phê bình văn học.                                                            Trần Thanh Đạm 
  44- Nguyễn Ngọc Thuần, lần thứ tư đoạt giải văn chương.                                                                  Tích hợp
  45- Nguyễn Bình Phương và cảm giác chữ.                                                                              Vũ Quỳnh Trang

vhvt 11
Trang bìa chính