Tình hình dịch và giới thiệu văn học nước ngoài ở
Trung Quốc thế kỷ 20
Trần Minh Sơn
(Tổng thuật)
Trong chương mở đầu có tiêu đề: Văn học
đương đại Trung Quốc và thế giới của chuyên luận
Hiện tượng văn học Thời kỳ mới,
nhà nghiên cứu Trương Nhẫn có viết: “Những ảnh hưởng của việc tiếp nhận văn
học và văn hóa ngoại lai ở Trung Quốc (TQ) đã đi theo con đường hình chữ
“Chi”. Các đời Hán, Đường lúc thịnh từng chủ động du nhập văn hóa Phật giáo
của Ấn Độ và văn học các nước, làm phong phú kho tàng văn hóa văn học dân
tộc. Song cùng với sự suy bại của đế quốc phong kiến, một thời gian dài thi
hành chính sách bế quan tỏa cảng. Đến thời cận đại, TQ vẫn không chủ động mở
cửa, phải đến khi nếm đòn nã pháo của các cường quốc phương Tây, cánh cổng
lớn mới chịu mở. Sau sự phá sản của “phong trào Dương vụ”, sự thất bại của
“Biến pháp Mậu Tuất” (1898), tầng lớp trí thức TQ mới chuyển ánh mắt từ chỗ
chú trọng đến những thay đổi chính trị của tầng lớp trên và Hoàng đế sang
tầng lớp dưới và việc làm thay đổi linh hồn của quốc dân, chú ý đến việc hấp
thu văn hóa tư tưởng tiến bộ của thế giới, nhất là đã coi văn học là bước đi
tiên phong cho việc thay đổi tinh thần. Lịch sử lại chứng minh, những trào
lưu, trường phái văn học và những chủ trương, khẩu hiệu văn học xuất hiện
trong tiến trình văn học hiện đại và đương đại TQ luôn có mối liên hệ này nọ
với sự ảnh hưởng của văn hóa văn học nước ngoài.
Quả vậy, theo Qua Bảo Quyền, ngay từ cuối đời Thanh, Lương Khải Siêu đề
xướng phải “Cách mạng giới tiểu thuyết”, cho rằng tiểu thuyết là vũ khí lợi
hại để cải lương chính trị, nên phải dịch và in tiểu thuyết chính trị, và
đích thân dịch các cuốn Giai nhân kỳ ngộ...;
Nghiêm Phục dịch Thiên diễn luận,
đề xuất tiêu chuẩn dịch “tín, đạt, nhã”; Lâm Thư bắt đầu công việc dịch
thuật bằng cuốn Trà hoa nữ,
và trong suốt hơn 20 năm dịch tổng cộng trên 170 tác phẩm văn học Âu Mỹ; Lỗ
Tấn dịch Du hành dưới mặt trăng,
Du hành dưới lòng đất và biên
dịch Hoặc ngoại tiểu thuyết tập,
họ là những người đi tiên phong phiên dịch văn học nước ngoài ở TQ, song
việc dịch giới thiệu lượng lớn văn học nước ngoài vào TQ chủ yếu là chuyện
của sau phong trào Ngũ Tứ.
Trước khi trình bày thực trạng dịch và giới thiệu văn học nước ngoài ở TQ từ
sau Phong trào Ngũ Tứ, chúng
tôi muốn giới thiệu đôi chút về dịch giả Lâm Thư, một hiện tượng trong làng
dịch thuật TQ thế kỷ XX, bởi ông là người không biết ngoại ngữ nào song lại
là người dịch nhiều nhất ở TQ (trên 170 cuốn).
Khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở TQ xuất hiện hàng lọat “Lâm dịch
tiểu thuyết” (tiểu thuyết do Lâm Thư dịch), khiến đông đảo người dân TQ lần
đầu tiên được tiếp xúc với các tác phẩm văn học Âu Mỹ. Đến mức Chu Tác Nhân
phải thốt lên “Chúng ta hầu như đều do đọc tiểu thuyết Lâm Thư dịch mới biết
nước ngoài cũng có tiểu thuyết”. Song ít ai ngờ, người không biết ngoại ngữ
như Lâm Thư trong suốt cuộc đời đã dịch trên 170 cuốn tiểu thuyết của các
nước Âu Mỹ.
Lâm Thư sinh năm 1852 (năm Hàm Phong thứ 2), người huyện Mân (nay là Phúc
Châu) tỉnh Phúc Kiến. Gia cảnh đời cha còn khá giả, đến đời ông thì suy
kiệt. Ham đọc sách từ nhỏ, lại được người thầy đức độ thương nên dạy chữ
cho, và còn hướng ông hãy học theo Âu Dương Tu và Đỗ Phủ - văn
chương hào sảng, chớ học làm loại văn Bát Cổ (lối văn gò bó, khuôn sáo) mà
phí cả đời. Có lẽ nhờ vậy mà ông quyết chí theo nghiệp văn chương. Khi không
có tiền thì đến nhà chú mượn sách xem, có chút tiền là ông dành dụm mua
sách. Chỉ vài năm sau, nhà ông đã có 3 hòm sách cũ, và thế là ông ngày đêm
tay không rời quyển. Năm 20 tuổi ông đã đọc trên 2 ngàn cuốn. Năm 30 tuổi
ông thi đậu cử nhân, song do không thích loại văn Bát Cổ, nên không đi thi
tiếp nữa, chuyên chú vào nghiên cứu cổ văn. Năm 1882 (năm Quang Tự thứ 8),
quân hạm của Pháp tấn công huyện Mân, hải quân nhà Thanh đại bại. Trước cảnh
hải quân TQ bị đánh bại, Lâm Thư lòng đau như cắt. Sự kiện đó khiến ông ngày
đêm trăn trở, phải làm gì để TQ cường thịnh. Những nước đó trước đây bị xem
là man di, sao nay lại có thể ngang nhiên làm nhục TQ. Tại sao TQ lại không
thể lớn mạnh như họ? Cuối cùng ông rút ra kết luận: TQ muốn lớn mạnh, nhất
định phải học phương Tây tiến hành cải cách.
Để đẩy nhanh việc học tập phương Tây, Lâm Thư quyết định giới thiệu một cách
rộng rãi tình hình đời sống xã hội lịch sử và ý thức tư tưởng phương Tây.
Song từ nhỏ ông chỉ thạo cổ văn, không biết ngoại ngữ thì giới thiệu sao
đây.
Đúng lúc đó, qua bạn bè giới thiệu, ông đã làm quen với một vị từ Pháp về,
tên là Vương Thọ Xương. Hai người gặp nhau là tâm đầu ý hợp, họ Vương giới
thiệu cho họ Lâm một số tiểu thuyết Pháp, tác phẩm
Trà Hoa Nữ của Dumas - con khiến
Lâm Thư vô cùng thích thú, hai người quyết định dịch ngay.
Do Lâm Thư không biết tiếng Pháp, nên cách dịch của họ rất đặc biệt: Vương
Thọ Xương cầm cuốn Trà hoa nữ
bằng tiếng Pháp lên, dùng tiếng Hán giảng nghĩa từng chữ từng câu, Lâm Thư
vừa nghe vừa ghi lại một cách lưu loát bằng Trung Văn. Sau bao ngày miệt
mài, cuối cùng bản dịch tiếng Trung cuốn
Trà hoa nữ đã hoàn thành. Năm
1899, bộ tiểu thuyết này đã được Phúc Châu San ấn xuất bản. Sự ra đời của
cuốn sách lập tức trở thành sự kiện, được độc giả tranh nhau mua.
Sau thành công của cuốn Trà hoa nữ,
Lâm Thư chính thức đi theo con đường dịch thuật. Mỗi lần dịch một cuốn sách,
ông lại hợp tác với người giỏi ngoại ngữ đó. Càng dịch tay nghề của ông càng
cao. Người hợp tác vừa giảng ý tứ của nguyên tác xong, ông đã ghi lại ngay
bằng Trung văn một cách lưu loát. Bình quân một giờ ông có thể dịch được
trên 1500 chữ, dịch xong hầu như không phải sửa chữa lại (tất nhiên có chỗ
ông chỉ dịch ý hoặc lược bỏ).
Cứ vậy, trong hơn 20 năm, ông đã dịch được tổng cộng 171 bộ tiểu thuyết nước
ngoài, chừng 270 tập, trong đó gồm tác phẩm của mười mấy nước Anh, Mỹ, Pháp,
Đức, Nga, Hy Lạp, Na Uy, Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha... Các tác phẩm của tác
giả nổi tiếng thế giới như Shakespeare, Tolstoi, Ibsen, Hugo,... đều do Lâm
Thư lần đầu tiên giới thiệu vào TQ. Có thể nói những năm đầu thế kỷ XX, tiểu
thuyết dịch của Lâm Thư đã có tác dụng khai sáng rất lớn đối với giới trí
thức TQ lúc đó, thậm chí có nhà lý luận còn cho rằng “việc xác lập văn học
hiện đại TQ lấy phương Tây làm mẫu mực được bắt đầu từ tiểu thuyết dịch của
Lâm Thư”.
Dưới đây là phần trình bày khá toàn diện và công phu của dịch giả Qua Bảo
Quyền về tình hình dịch và giới thiệu văn học nước ngoài ở TQ từ sau phong
trào Ngũ Tứ (1919) trở lại đây.
Sau
Phong trào Ngũ Tứ
Cùng với sự hưng khởi của phong trào văn hóa mới “Ngũ Tứ” (1919), việc phiên
dịch và giới thiệu các tác phẩm văn học nước ngoài, sự du nhập các hình thức
văn học mới (thơ mới, kịch nói) và ký hiệu đánh dấu mới đã ảnh hưởng rất lớn
đến sự hình thành và phát triển của văn học mới Trung Quốc. Trước tiên là sự
ra đời của tạp chí Tân Thanh Niên
tháng 9 năm 1915 do Trần Độc Tú chủ biên, chủ trương “dân chủ” và “khoa
học”, phản đối đạo đức cũ, đề xướng đạo đức mới, phản đối văn học cũ, đề
xướng văn học mới đã trở thành mặt trận quan trọng trong việc giới thiệu và
dịch văn học nước ngoài vào TQ. Lúc đó đã giới thiệu tiểu thuyết của
Turgenev, Tolstoi, Maupassant..., kịch của Ibsen..., đặc biệt tháng 6 năm
1918 đã cho ra chuyên san về Ibsen,
phiên dịch và giới thiệu kịch bản Nôra...
rất có tác dụng cho cuộc đấu tranh chống phong kiến và đòi giải phóng cá
tính lúc đó.
Ngay từ “Ngũ Tứ”, trong phương diện giới thiệu và dịch văn học nước ngoài,
quan điểm của các nhà đi tiên phong rất rõ ràng. Lỗ Tấn cho rằng, dịch các
tác phẩm văn học nước ngoài là vì nhu cầu của cách mạng TQ. Còn Thẩm Nhạn
Băng khi phụ trách “chuyên mục trào lưu tiểu thuyết mới” của tờ
Tiểu Thuyết Nguyệt Báo năm 1920
chỉ rõ: “... hiện giờ TQ phải dịch nhiều tiểu thuyết của các trường phái
mới, trước tiên nên dịch và giới thiệu phái Tả thực và phái Tự nhiên.” Ông
còn đưa ra một danh mục 43 tác phẩm chủ yếu của 20 nhà văn quan trọng của
Châu Âu. Cù Thu Bạch trong lời tựa cuốn
Tập truyện ngắn các nhà văn Nga nổi tiếng thì nói: “Chỉ dịch
những tác phẩm mà xã hội TQ yêu cầu – chỉ dịch những tác phẩm mà người dân
bình thường trong xã hội TQ hiểu được”.
Đầu năm 1921, Hội nghiên cứu văn học được thành lập, ngay năm sau, tờ
Tiểu Thuyết Nguyệt Báo do Thẩm
Nhạn Băng đích thân chủ biên và cách tân đã có công lớn trong việc giới
thiệu rộng rãi văn học nước ngoài, chẳng hạn tờ
Tiểu Thuyết Nguyệt Báo tháng 9
năm 1921 ngoài việc xuất bản chuyên san
Nghiên cứu văn học Nga, tháng 10 cùng năm lại cho ra chuyên san
Văn học các dân tộc bị áp bức, tháng 4 năm 1924 lại cho ra chuyên
san Nghiên cứu văn học Pháp.
Ngoài ra về phương diện nghiên cứu tác giả, lần lượt cho ra
Chuyên san Tagore,
Chuyên san Byron,
Chuyên san Andersen,
Chuyên san Romain Rolland... Lúc
này các nhà dịch thuật hăng hái nhất phải kể đến Lỗ Tấn, Thẩm Nhạn Băng, Cù
Thu Bạch, Quách Mạt Nhược, Trịnh Chấn Đạc... Lỗ Tấn chủ yếu dịch văn học
Nga, Nhật và các quốc gia Đông Âu, Bắc Âu; Thẩm Nhạn Băng thường xuyên giới
thiệu và dịch văn học của các quốc gia và dân tộc nhược tiểu trên tờ
Tiểu Thuyết Nguyệt Báo, ngoài ra
còn viết nhiều bài bình luận và nghiên cứu văn học. Cù Thu Bạch và Cánh Tế
Chi đều là những nhà nghiên cứu và dịch văn học Nga, ngay từ năm 1920, họ đã
biên tập cuốn Tập truyện ngắn các nhà
văn Nga nổi tiếng. Các cuốn
Tùng thư văn họcNga và Tập
kịch Nga, trong đó tác phẩm
Cha và con của Turgenev, Phục
sinh của L. Tolstoi, kịch bản
Giông tố của A.N. Ostrovski...
do Thương Vụ ấn Thư Quán xuất bản đều do Cánh Tế Chi biên soạn. Quách Mạt
Nhược chủ yếu dịch văn học Đức, các cuốn do ông dịch như
Nỗi buồn của chàng Werther và
Faust của Goethe đều rất thịnh
hành lúc đó. Trịnh Chấn Đạc từ năm 1922 thay Thẩm Nhạn Băng tiếp tục làm chủ
biên tờ Tiểu Thuyết Nguyệt Báo,
vẫn tiếp tục coi nhiệm vụ dịch và giới thiệu văn học nước ngoài là chính.
Mỗi kỳ ông đều viết mục Văn học đại
cương, giới thiệu toàn diện văn học nước ngoài từ cổ đại đến hiện
đương đại, đồng thời ông còn dịch nhiều tập thơ của Tagore. Phương diện giới
thiệu kịch nước ngoài, Phan Gia Tuân dịch các tác phẩm của Ibsen, Bernard
Shaw, Oscar Wilde..., Điền Hán cũng bắt đầu dịch kịch của Shakespeare.
Trước và sau thập kỷ 30
Sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1927, cùng với việc thành lập Liên minh
các nhà văn cánh tả TQ, việc phiên dịch văn học đã bước vào giai đoạn mới,
lượng lớn văn học vô sản Liên Xô và văn học cách mạng, tiến bộ các nước đã
được giới thiệu. Lỗ Tấn cho đến tận lúc mất (1936), luôn là chủ tướng của
giới phiên dịch. Trong tình trạng nổ ra các cuộc “vây diệt quân sự” và “vây
diệt văn hóa” do bọn phản cách mạng Quốc Dân Đảng gây ra, vì một nền lý luận
văn nghệ cách mạng của TQ, ông đã chủ biên bộ
Tùng thư lý luận nghệ thuật khoa học,
trong năm 1929 đã phiên dịch được các bộ
Bàn về nghệ thuật của Plekhanov
và bộ Bàn về nghệ thuật của
Lunacharski... Ông cho rằng lúc này dịch các “tác phẩm mang tính chiến đấu”
là quan trọng hàng đầu. Năm 1930, ông đã dịch cuốn
Chiến bại của Fadeev, bỏ tiền ra
in cuốn Suối thép của
Serafimovich do Tào Tĩnh Hoa dịch. Ông còn chủ biên và giới thiệu bộ
Tùng thư văn nghệ hiện đại, giới
thiệu các tác phẩm văn học Liên Xô, ngoài ra ông còn lần lượt chủ biên các
tờ văn nghệ: Mãng Nguyên,
Bôn Lưu,
Triêu Hoa, Manh Nha Nguyệt Báo,
Dịch Văn..., đã bồi dưỡng
được nhiều tài năng phiên dịch trẻ như Nhu Thạch, Tôn Dụng... Năm 1935 ông
đã hoàn thành tác phẩm dịch quan trọng nhất trong đời, cuốn
Những linh hồn chết của Gogol.
Lúc đó Cù Thu Bạch đang sống bí mật tại Thượng Hải, ông đã dịch từ tiếng Nga
nhiều luận văn văn nghệ của chủ nghĩa Mác và các tập chính luận, tiểu thuyết
của Gorki, về sau được Lỗ Tấn tập hợp thành tập
Hải thượng thuật lâm và xuất bản năm 1936, tác phẩm thơ nổi tiếng
Những người Digan của Puskin và tác phẩm
Bài ca chim báo bão của Gorki cũng được hoàn thành vào giai đoạn
này.
Trước và sau thập niên 30, trước tiên là lượng lớn tác phẩm văn học Liên Xô
được giới thiệu và dịch, trong đó tác phẩm của Gorki ảnh hưởng lớn nhất.
Chẳng hạn cuốn Người mẹ của
Gorki do Hạ Diễn (Thẩm Đoan Tiên) dịch, có tác dụng rất lớn đối với việc
giáo dục động viên lớp trẻ đi theo con đường cách mạng, do đó bị chính quyền
Quốc Dân Đảng liệt vào “sách cấm”. Phương diện giới thiệu văn học tiến bộ và
văn học cách mạng các nước, có Quách Mạt Nhược dịch kịch bản của John
Galsworthy (Anh) và các cuốn Vua than
đá, Dầu mỏ,
Lò sát sinh... của Sinclair
(Mỹ), ông còn dịch cả các luận văn liên quan đến nghệ thuật của Mác và
Ăngghen.
Việc giới thiệu và phiên dịch
văn học cổ điển và văn học cận đương đại nước ngoài cũng được liên tục.
Chẳng hạn Thương Vụ ấn Thư Quán đã xuất bản nhiều danh tác của văn học thế
giới, bộ tùng thư của Hội nghiên cứu văn học đã xuất bản nhiều tác phẩm
dịch. Trong các nhà phiên dịch, Chu Sinh Hào chuyên dịch tác phẩm kịch của
Shakespeare, Mục Mộc Thiên dịch tiểu thuyết của Balzac, Lý Thanh Nhai dịch
truyện ngắn của Maupassant, Phụ Lôi dịch tác phẩm
Jean Christophe và ba truyện danh nhân của Romain Rolland. Trong
văn học phương Đông, Khai Minh Thư Điếm và Trung Hoa Thư Cục đã xuất bản
nhiều tác phẩm của các nhà văn Nhật Bản, chẳng hạn các tuyển tập của: K.
Doppo, N.Soseki, A. Takeo, A. Ryunosuke, S.Haruo, T. Jun’ichiro, K. Kan...,
đồng thời cũng xuất bản các tác phẩm văn nghệ của giai cấp vô sản Nhật Bản,
như tác phẩm Những người bắt cua
của K. Takiji. Tháng 8 năm 1934 Lỗ Tấn sáng lập tạp chí
Dịch Văn, đến tháng 6 năm 1937 thì đình bản, tổng cộng ra được 29
kỳ. Từ tháng 10 năm 1935, Trịnh Chấn Đạc chủ biên bộ
Thế giới văn khố, tổng cộng ra
được 12 cuốn. Trong phương diện giới thiệu văn học cổ điển nước ngoài, văn
học tiến bộ và cách mạng của các nước lúc đó, chúng đã có tác dụng nhất định
thúc đẩy sự phát triển của văn học hiện đại TQ.
Lỗ Tấn và Cù Thu Bạch trong
phương diện xây dựng lý luận phiên dịch đã có cuộc tranh luận gay gắt với
Lương Thực Thu, Trần Nguyên... Năm 1931, trong bức thư Lỗ Tấn gửi cho Cù Thu
Bạch bàn về phiên dịch, đã trình bày một cách hệ thống lý luận của ông. Lỗ
Tấn chủ trương “Phàm việc phiên dịch phải chú ý cả hai mặt, một là phải gắng
sức sao cho dễ hiểu, hai là phải giữ được phong cách vốn có của nguyên tác”.
Ông không tán thành những người chủ trương “thà lưu loát mà bất tín”. Quan
điểm của ông là “thà tín mà không lưu loát”. Cù Thu Bạch tiến một bước đề
xuất vấn đề “thống nhất giữa tín và lưu loát”. Loạt bài viết về vấn đề phiên
dịch của họ đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự.
Thời kỳ chiến tranh chống Nhật và sau thắng lợi
Năm 1937, chiến tranh chống
Nhật bùng nổ, việc phiên dịch văn học vẫn không bị dừng lại, tại khu Quốc
dân đảng thống trị, tại khu giải phóng và Thượng Hải “cô đảo”, những người
làm công tác phiên dịch vẫn liên tục đứng trên cương vị chiến đấu.
Trong khu Quốc dân đảng thống trị, các loại báo và tạp chí dù xuất bản tại
Trùng Khánh, Quế Lâm, Côn Minh... như
Tân Hoa Nhật Báo, Cứu Vong
Nhật Báo, Kháng Chiến Văn
Nghệ, Văn Nghệ Trận Địa,
Văn Học Nguyệt Báo,
Trung Xô Văn Hóa, đều đăng tải
lượng lớn các tác phẩm văn học nước ngoài, nhất là các tác phẩm liên quan
tới cuộc kháng chiến của nhân dân Liên Xô. Lúc đó tại Hiệp hội Văn hóa Trung
Xô ở Trùng Khánh, Tào Tĩnh Hoa đã chủ biên bộ
Tùng thư văn học Liên Xô, những người tham gia biên tập và phiên
dịch gồm có Tào Tĩnh Hoa, Mao Thuẫn, Qua Bảo Quyền... Tào Tĩnh Hoa dịch tác
phẩm Tôi là người con của nhân dân lao
động của Kadaev, tác phẩm Cầu
vồng của Vasiliev, kịch bản
Xâm lược của Leonov... Mao Thuẫn dịch
Ngọn lửa phục thù của
Pavlenko... Qua Bảo Quyền dịch trên Tân
Hoa Nhật Báo nhiều phóng sự liên quan đến nội chiến ở Tây Ban
Nha, về cuộc vây hãm ở Paris và cuộc chiến anh dũng của nhân dân Liên Xô,
sau biên tập thành các cuốn Cuộc chiến
tranh không phải chiến tranh,
Thành phố Xtalin anh hùng...
Tại Diên An, các tờ Giải Phóng Nhật Báo,
Đại Chúng Văn Nghệ đăng nhiều
tác phẩm văn học nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô). Tiêu Tam dịch vở kịch
Tiền tuyến của Korneychuck đăng
trên tờ Giải Phóng Nhật Báo.
Tại “Cô đảo” Thượng Hải, năm 1941 xuất hiện NXB Thời Đại, đã cho ra mắt các
tờ Thời Đại Nhật Báo,
Thời Đại Chu San,
Văn Nghệ Liên Xô, phiên dịch
lượng lớn tác phẩm văn học kháng chiến của Liên Xô. Lúc đó, những người tham
gia biên tập và phiên dịch của nhà xuất bản gồm có Khương Xuân Phương, Lâm
Đạm Thu, Trần Băng Di, Diệp Thủy Phu, Lỗi Nhiên, Thảo Anh... Sau kháng chiến
thắng lợi có thêm Qua Bảo Quyền, Tôn Thằng Vũ, Tưởng Lộ, Trương Mạnh Khôi...
Lúc đó trên tờ Thời Đại Chu San
mở chuyên trang “Nghiên cứu Gorki”, giới thiệu tác phẩm của Gorki và
tình hình nghiên cứu Gorki ở Liên Xô. Qua Bảo Quyền sau khi tham gia NXB
Thời Đại, đã biên tập các cuốn Gorki
nghiên cứu niên san, Văn tập
Puskin và Nghiên cứu nhà viết
kịch lớn của Nga
A.N.Ostrovski.
Nhà phiên dịch trẻ Vạn Thực Tư đã qua quốc tế ngữ Espéranto dịch tập thơ
Gào
thét của Maiakovski,
giới thiệu các bài thơ Mệnh
lệnh gửi đội quân nghệ thuật,
Hành khúc sang trái và
Hộ chiếu Liên Xô... Mai ích
phiên dịch tiểu thuyết nổi tiếng của N.A.Ostrovski
Thép đã tôi thế đấy. Cuốn sách
này trong những năm chiến tranh và sau chiến tranh có tác dụng giáo dục rất
lớn đối với quảng đại độc giả trẻ.
Thời kỳ chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng, việc phiên dịch
giới thiệu văn học cổ điển nước ngoài và văn học hiện đại, đương đại nước
ngoài vẫn không bị ngừng trệ. Về văn học cổ Hy Lạp, có La Niệm Sinh, Diệp
Quân Kiện... dịch bi kịch cổ đại Hy Lạp; về văn học Anh, có Chu Sinh Hào,
Tào Vị Phong... dịch kịch của Shakespeare, Hứa Thiên Hồng, Tưởng Thiên Tá
dịch tiểu thuyết của Dickens; về văn học Pháp, có Lý Kiện Ngô dịch tiểu
thuyết của Flaubert và kịch của Molière, Phụ Lôi dịch tác phẩm của Balzac và
Rolland Romain; về văn học Nga, có Ba Kim, Lệ Ni, Lục Lãi... dịch tiểu
thuyết của Turgeniev, Cánh Tế Chi dịch tác phẩm của Dostoievski, Cao Thực
dịch Chiến tranh và hòa bình
của L. Tolstoi, Nhữ Long dịch truyện ngắn của Tshekhov, Cánh Tế Chi và La
Tắc Nam dịch tiểu thuyết của Gorki; về văn học Mỹ, có Phụ Đông Hoa dịch tiểu
thuyết của Theodore Dreiser, Tưởng Thiên Tá dịch tiểu thuyết của Jack
London, Sở Đồ Nam dịch thơ của Whitman... Trước khi nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa thành lập (1949), nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới đã
được dịch và giới thiệu.
Sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập
Năm 1949, nước CHND Trung Hoa
thành lập, mở ra trước mắt những người làm công tác dịch thuật bầu trời rộng
lớn. Năm 1951 đã tổ chức Hội nghị công tác dịch thuật toàn quốc lần thứ
nhất, xuất bản tờ Phiên Dịch Thông Báo.
Năm 1954, Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc lại mở Hội nghị công tác dịch thuật
văn học toàn quốc, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Chu Dương... đã tham dự và
nêu rõ tính quan trọng của việc đẩy mạnh dịch thuật văn học nước ngoài. Lúc
đó cùng với việc cải tạo XHCN, các nhà xuất bản đã trải qua công tư hợp
doanh thành lập nhà xuất bản văn học của nhà nước, đưa ra kế hoạch vĩ mô về
phiên dịch và xuất bản văn học nước ngoài. Tạp chí
Dịch Văn được xuất bản trở lại
vào năm 1953, từ năm 1959 đổi tên thành
Thế Giới Văn Học, đã có nhiều đóng góp trong việc phiên dịch giới
thiệu văn học nước ngoài và đoàn kết những người làm công tác dịch thuật văn
học nước ngoài...
Về mặt các quốc gia có tác phẩm văn học được phiên dịch, phạm vi cũng ngày
một rộng. Văn học Nga và văn học Liên Xô luôn chiếm vị trí chủ yếu, NXB Văn
học Nhân dân đã xuất bản một cách có kế hoạch các bộ
Tuyển tập Gorki và
Tuyển tập Maiakovski nhiều tập.
Lúc đó đã bắt đầu chú ý đến tác phẩm văn học của các quốc gia Đông Nam Âu,
dù là Ba Lan, Tiệp Khắc (cũ), Hungari, Rumani, Nam Tư (cũ), Bungari, cho đến
Albani, đều có nhiều tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng được dịch, chẳng hạn
thơ của Mickiewicz của Ba Lan, Petofi của Hungari, Botev của Bungari đều
được dịch và giới thiệu. Trong các nhà văn hiện đương đại, tác phẩm
Viết dưới giá treo cổ của Fucik,
Tiệp Khắc, đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến độc giả TQ.
Cùng với việc mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế, nhiều họat động kỷ niệm các
danh nhân văn hóa và nhà văn thế giới đã được tổ chức, các tác phẩm của họ
đã được dịch và giới thiệu, trong đó bao gồm tác phẩm của nhiều nhà văn
thuộc Tây Âu, Bắc Âu, Nam Âu và Mỹ; đồng thời cũng coi trọng việc giới thiệu
tác phẩm của các nước thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh... Lần đầu tiên
phiên dịch tác phẩm văn học cổ điển của Nhật, chẳng hạn cuốn
Cổ sự ký,
Nguyên thị vật ngữ và nhiều tác
phẩm của các nhà văn hiện đương đại Nhật, ngoài ra còn dịch tác phẩm văn học
cổ điển của Triều Tiên, như cuốn Xuân
phương truyện và tiểu thuyết, thơ ca của các tác gia hiện đương
đại. Về văn học Ấn Độ đã phiên dịch bộ sử thi Ấn Độ
Mahabharata và
Ramayana, tập đồng thoại
Ngũ quyển thư và kịch
Sakuntala của Kalidasa và tác phẩm của các tác giả hiện đương đại
Ấn Độ Tagore và Prem Chand, ngoài ra còn xuất bản
Tuyển tác phẩm của Tagore 10
quyển. Về văn học Pakistan, đã xuất bản tập thơ của Muhammad. Về văn học các
nước Ảrập, đã xuất bản Nghìn lẻ một đêm,
tác phẩm cổ điển Vong linh thư
của Ai Cập và Tập tiểu thuyết Ảrập
hiện đại, Tập thơ Ảrập hiện
đại. Về văn học Thổ Nhĩ Kỳ, đã xuất bản tập thơ của Nazim Hikmet.
Ngoài ra còn phiên dịch và xuất bản tiểu thuyết và thơ của các quốc gia Châu
Phi. Đã dịch và xuất bản nhiều tác phẩm của các quốc gia châu Mỹ Latinh,
chẳng hạn tập thơ của nhà thơ Chilê Neruda và tập tiểu thuyết của nhà văn
Brazil Amado.
Nhân tài phiên dịch xuất hiện ngày một nhiều. Hầu như văn học các nước và
các khu vực đều có những người chuyên dịch, số người làm công tác dịch thuật
đông không kể xiết, đặc biệt các nhà phiên dịch trẻ xuất hiện ngày càng
nhiều.
Thời kỳ “Cách mạng văn hóa” (1966-1976), văn học nước ngoài trở thành khu
cấm, mãi đến năm 1976 sau khi lật đổ tập đoàn phản cách mạng Giang Thanh,
công việc dịch và giới thiệu văn học nước ngoài mới được hồi sinh. Các NXB
văn học đã khôi phục kế hoạch ra sách vốn có, không ít các NXB địa phương
cũng đã bắt đầu xuất bản tác phẩm văn học nước ngoài. Các tập san dịch và
giới thiệu văn học nước ngoài cũng liên tục xuất hiện, ngoài tờ
Thế Giới Văn Học xuất bản trở lại vào tháng 10 năm 1977, đã ra
mắt các tập san văn học nước ngoài mới: Nam Kinh có
Dịch Lâm và
Đương Đại Ngoại Quốc Văn Học;
Thượng Hải có Ngoại Quốc Văn Nghệ,
Ngoại Quốc Văn Học Báo Đạo và
Ngoại Quốc Ngữ; Bắc Kinh có
Ngoại Quốc Văn Học Quý San,
Quốc Ngoại Văn Học,
Ngoại Quốc Văn Học,
Ngoại Quốc hý kịch; Vũ Hán có
Ngoại Quốc Văn Học Nghiên Cứu;
Quảng Châu có Thế Giới Văn
Nghệ, Dịch Hải và
Hoa Thành Dịch Tác. Các tập
san mang tính chuyên môn, về văn học Liên Xô, Bắc Kinh có
Văn Học Liên Xô,
Văn Học Liên Xô Đương Đại; Vũ
Hán có Văn Học Nga Xô; về văn
học Nhật Bản, Trường Xuân có Văn Học
Nhật Bản.
Theo Tào Văn Hiên, từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ 20, TQ đã dịch và xuất bản một
lượng lớn chưa từng có các tác giả lớn của văn học thế giới, từ thế kỷ 18
lại đây (toàn bộ các nhà văn đứng đầu trong lịch sử văn học nước họ) đều
đựơc giới thiệu. Các trước tác của họ, hoặc một phần hoặc toàn bộ đều đã
được dịch.
Có thể nói, chỉ trong một thời gian ngắn, hầu hết các tác
phẩm nổi tiếng, các nhà văn lớn, các trào lưu sáng tác, trường phái lý luận,
tư trào triết học lớn của phương Tây gần 100 năm qua đều được dịch và giới
thiệu ở TQ. Chẳng hạn lý luận chủ nghĩa hình thức, lý luận văn học
phê bình mới, lý luận văn học chủ nghĩa cấu trúc, lý luận văn học tự sự học,
lý luận văn học phân tích tinh thần, lý luận văn học phê bình nguyên hình,
lý luận văn học chủ nghĩa hiện sinh, lý luận tiếp nhận văn học, phê bình
phản ứng độc giả, lý luận văn học hiện tượng học, lý luận văn học giải thích
học, lý luận văn học chủ nghĩa Mác phương Tây, xã hội học văn học, ký hiệu
học, lý luận văn học giải cấu trúc, lý luận văn học chủ nghĩa hậu hiện đại,
lý luận văn học so sánh...
Việc du nhập ồ ạt văn hóa văn nghệ nước ngoài, một mặt đã tác động mạnh mẽ
đến toàn bộ đời sống xã hội, đến cách nghĩ cách cảm của mọi người, nhất là
lớp trẻ. Mặt khác, do du nhập một cách tràn lan, thiếu sự giới thiệu với
tinh thần phê phán, gạn đục khơi trong, nên trong một chừng mực nhất định đã
gây nên sự hỗn loạn. Thái độ tiếp nhận của giới lý luận cũng rất khác nhau.
Tiền Trung Văn cho rằng, có mấy loại như sau: “Một loại là bài xích một
cách giản đơn. Đối với những người này, phàm là lý luận văn học của phương
Tây đều là dị đoan tà thuyết. Cách nghĩ của họ là, thập kỷ 30 nhất là thập
kỷ 50, những lý luận văn học chủ nghĩa Mác được du nhập từ Nhật bản, Liên Xô
(cũ) vào TQ, và hệ thống quy phạm lý luận được nêu ra trong các chuyên luận
của các học giả Liên Xô (cũ) đã quá đủ để chúng ta sử dụng và truyền lại cho
đời sau, không tuyên truyền những tư tưởng này, lại đổ xô chạy theo các lý
luận văn học của phương Tây, là cớ làm sao? Lý luận văn học nước ngoài là bộ
phận hợp thành của hình thái ý thức giai cấp tư sản nước ngoài, cho nên mỹ
học tiếp nhận đã bị coi là “thú chơi của giai cấp tư sản”, còn “Bản thể
luận”, “Hiện tượng học” lại là công cụ lý luận để giai cấp tư sản phương Tây
tiến hành “diễn biến hòa bình” đối với chúng ta, sao có thể dùng được? Có
tác giả đến nay còn cho rằng, văn học chủ nghĩa hiện đại thịnh hành một thời
ở phương Tây, đều là văn học của giai cấp tư sản hủ bại. Không còn nghi ngờ
gì nữa, một số người, thân đã ở vào thập kỷ 90 mà tư tưởng vẫn dừng lại ở
thời đại “Cách mạng văn hóa”, điều này tất nhiên không đáng để coi là bài
học. Một loại khác lại là, một số người cho rằng lý luận văn học truyền
thống, lý luận văn học chủ nghĩa Mác đã hết thời, liền bị họ ném bỏ, cái gì
của nước ngoài cũng hay, đối với các loại lý luận văn học phương Tây họ đều
tiếp nhận một cách toàn diện, hoàn toàn đồng cảm. Khi tư tưởng của văn học
phê bình mới được giới thiệu vào, liền cho rằng học thuyết này hay hết chỗ
nói, đã thực sự giải quyết đựơc mọi vấn đề của lý luận văn học. Kỳ thực đối
với phê bình mới, các học giả nước ngoài từ lâu đã chỉ ra nhược điểm của nó,
mà đó lại là nhược điểm rất nghiêm trọng, thế mà với một số tác giả TQ,
nhược điểm lại trở thành ưu điểm. Khi tư tưởng văn nghệ của Freud đựơc giới
thiệu vào, nó rõ ràng đã mở rộng tầm nhìn cho lý luận và sáng tác của chúng
ta, đồng thời đối với loại lý luận khó mà thực chứng này, Freud cũng đã nói
rằng “libido” là do bị “Êđip” “đốc thúc”. Song đối với một số tác giả của
nước ta, nói hay thì cái gì cũng hay, đối với thuyết “ libido” như vớ được
bảo bối, dốc toàn lực tán dương sự hoành hành và phóng túng của “libido”,
tức tán dương phiếm tính luận. Lý luận chủ thể được giới thiệu vào khoảng
giữa thập kỷ 80, liền nổ ra cuộc tranh luận dữ dội. Tư tưởng của lý luận chủ
thể là cơ sở lý luận của nhiều loại tư tưởng mỹ học phương Tây hiện đại,
trong lý luận văn học trước đây của chúng ta, nó không được coi trọng, không
thay đổi tình trạng này, lý luận văn học khó mà tiến lên được, cho nên việc
sửa chữa sai lầm này là lẽ đương nhiên. Song trong tranh luận, ý tứ thực tế
của những người đề xướng lý luận chủ thể lại muốn dùng quan niệm văn học của
lý luận chủ thể để thanh trừ lý luận văn học truyền thống vốn bị coi là “cái
lồng tinh thần”, mà người phản đối trên thực tế lại chỉ dùng quan hệ chủ
khách thể trong triết học để thay cho tư tưởng chủ thể của sáng tác văn học
vốn cực kỳ phức tạp, biến hóa phức tạp. Tự sự học rất có ý nghĩa về mặt lý
luận, đã liên tục được giới thiệu. Có tác giả đã vận dụng nó để nghiên cứu
tiểu thuyết, cho rằng hiện giờ ý hướng của một số tiểu thuyết nào đó, đã từ
biểu hiện nội hàm của việc kể lại câu chuyện, chuyển sang cấu trúc và hình
thức của tiểu thuyết, do đó, tiểu thuyết đã trở thành loại nghệ thuật ngôn
ngữ thực sự, thực sự trở thành loại văn thể độc lập, chỉ có ngôn ngữ và
phương thức cấu trúc của nó mới là chỗ tồn tại căn bản của tiểu thuyết. Vậy
thì, từ nay về sau vẫn sẽ xuất hiện lượng lớn tiểu thuyết không phù hợp với
loại lý luận tiểu thuyết này thì sao? Chúng sẽ phải ngừng tồn tại, hoặc tự
diệt vì loại lý luận này sao? Tiểu thuyết, nói thế nào nhỉ? Bảo rằng chỉ cần
ngôn ngữ, cấu trúc là đủ sao? Tiểu thuyết chỉ là tự sự sao? Ngoài ra, ngoài
việc tiếp nhận một cách toàn diện lý luận văn học nước ngoài, phủ nhận
truyền thống lý luận văn học gần mấy chục năm qua, còn xuất hiện tình trạng
phủ nhận toàn diện truyền thống lý luận văn học bản địa lâu đời của chúng
ta?”.
Văn học nước ngoài, số 3/2004
Tài liệu tổng thuật:
1.
Đại bách khoa toàn thư TQ, Văn
học TQ, quyển 2, NXB Đại Bách khoa Toàn thư TQ, 1993.
2. Tào Văn Hiên,
Nghiên cứu hiện tượng văn học những năm 80
của TQ, NXB Đại học Bắc Kinh, 1998.
3. Tiền Trung Văn,
Lý luận văn học: Hướng tới thời đại giao
lưu đối thoại. NXB
Đại học Bắc Kinh, 1999.
4. Dương Liên Phân,
Lâm Thư và sự hình thành tính hiện đại
trong văn học TQ. Tân Hoa Văn
trích, số 4/2003.
5.
Sự xuất hiện của
“Lâm dịch tiểu thuyết”,
5000 năm Văn hóa,
NXB Thiếu niên Nhi đồng, TQ,1992.