vhvt |
tự do tư tưởng và sáng tạo |
thi luận |
|
1. Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, 2. Sương hồng lam ôm-ấp nóc nhà tranh, 3. Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, 4. Người các ấp tưng-bừng ra chợ Tết. 5. Họ vui-vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; 6. Những thằng cu áo đỏ chạy lon-xon, 7. Vài cụ già chống gậy bước lom-khom, 8. Cô yếm thắm che môi cười lặng-lẽ, 9. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ. 10. Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, 11. Con bò vàng ngộ-nghĩnh đuổi theo sau. 12. Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, 13. Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, 14. Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, 15. Đồi thoa son nằm dưới ánh bình-minh.
17. Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, 18. Để lắng nghe người khách nói bô-bô. 19. Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ, 20. Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán. 21. Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản, 22. Tay mài nghiên hí-hoáy viết thơ xuân. 23. Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, 24. Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ. 25. Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, 26. Nước thời-gian gội tóc trắng phau phau. 27. Chú hoa-man đầu chít chiếc khăn nâu, 28. Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. 29. áo cụ lý bị người chen sấn kéo, 30. Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra. 31. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà 32. Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. 33. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ-rợi, 34. Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. 35. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha, 36. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, 37. Con gà trống màu thâm như cục tiết, 38. Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
40. Khi chuông tối bên chùa văng-vẳng đánh, 41. Trên con đường đi các làng hẻo-lánh, 42. Những người quê lũ-lượt trở ra về. 43. ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê, 44. Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ.
(Ngày nay)
Đọc lại bài thơ Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ Đào Duy Hiệp
“Tiếng cười ta còn nghe văng-vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác”. (Thi nhân Việt Nam)
* Trong biểu tượng văn hóa thế giới: chợ, theo quan niệm của Trung Hoa cổ vừa là nơi trao đổi, mua bán, còn là địa điểm hẹn hò yêu đương, nơi diễn ra các nghi lễ cầu mưa, sản xuất dồi dào, cầu trời phù hộ… Từ điển còn cho biết điều này đúng đến mức nếu muốn trời thôi mưa phải cấm phụ nữ bước vào chợ. (Nói cho vui: Cấm chị em đi chợ thì chợ thiệt, đàn ông thiệt (vì bếp đói), chị em cũng chẳng vui vẻ gì: “Môn thể thao ưa thích nhất của phụ nữ là đi chợ”! Riêng với chợ trong những ngày Tết thì không chỉ có chị em). Thực ra, vẫn theo biểu tượng văn hóa thế giới, chợ còn là nơi giao hòa âm dương, là địa điểm thái bình. Cấu trúc không gian của bài thơ hài hòa và tấp nập, đan xen thanh bình giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ: khổ 1, 15 dòng; khổ 2, 23 dòng; khổ 3, 6 dòng được ngăn cách bởi các dấu sao. Khổ 1 và khổ 3 đều có thiên nhiên và con người. Riêng khổ 2, trung tâm của bài thơ, (lớn nhất), chỉ dành để quan sát, miêu tả con người trong những cử chỉ, dáng điệu, âm thanh (cười, nói) cùng những hoạt động của họ. Nếu như ở khổ 1, số dòng thơ tương đối cân bằng giữa thiên nhiên và con người (8/7) trên đường đến chợ; thì ở khổ 3 thiên nhiên lấn át con người (5/1): cảnh chợ vãn, (gợi nhớ đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam). Trong khổ 2, chợ xuất hiện thay chỗ cho thiên nhiên; “người kể chuyện” hướng cái nhìn đôn hậu của mình vào đối tượng là con người để “tự sự”. Không gian trong văn bản nghệ thuật là “tổng hợp của các đối tượng cùng loại” và “giữa chúng có các quan hệ giống các quan hệ không gian thông thường (tính liên tục, khoảng cách...)” (Yu. Lotman). Những từ ngữ chỉ quan hệ không gian (trên, dưới, trong, ngoài) trong thơ Đoàn Văn Cừ “chuyển kênh” rất từ tốn, nhẹ nhàng, chậm rãi cùng với một lễ hội của sắc màu tươi vui, rực rỡ: “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, / Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh, / Trên con đường viền trắng mép đồi xanh”. Từ không gian tĩnh, khách quan được tiếp xúc từ xa này chúng ta chuyển sang không gian động, chủ quan được tiếp xúc thân mật, gần gũi qua những động từ có tính chất vận động: “Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, / Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, / Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, / Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”. Trong cả hai cảnh trên không gian được xếp theo trục thẳng đứng trên - dưới: từ đỉnh núi xuống đến con đường; từ đầu cành đến trong ruộng lúa, từ núi xuống đồi. Khu vực tiếp xúc sáp lại dần cho đến không gian công cộng nơi sinh hoạt của con người.
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau."
_____________________
(*) Bài thơ trên được trích trong tập: Hoài Thanh - Hoài Chân,
Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa tiên,
1967. Chúng tôi có tham khảo thêm hai bản khác: Hoài Thanh - Hoài Chân,
Thi nhân Việt Nam 1932 - 1945,
NXB Văn học, Hà Nội, 1988; và Hoài Thanh - Hoài Chân,
Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học,
Hà Nội, 1998. - TG.
eVăn
|
|
luận thơ |
|